Thứ bảy, 13 Tháng 7
2013 02:11 Dương Bảo Quân (Yang Baoyun)
Trung
Quốc và Việt Nam là hai quốc gia láng giềng gần gũi, do vậy giữa hai nước đã tồn
tại quan hệ lịch sử lâu dài. Trải qua quá trình tiếp xúc lịch sử, rất nhiều tư
liệu lịch sử về hai quốc gia đã ra đời và tồn tại cho đến ngày nay. Bài viết
này giới thiệu vắn tắt về các tư liệu lịch sử của Trung Quốc liên quan đến các
dữ liệu lịch sử của Việt Nam. Nội dung của các tư liệu lịch sử của Trung Quốc
liên quan đến địa lý, thể chế chính trị, kinh tế, thói quen và tập quán xã hội
của người Việt Nam…
Tác
giả: Dương Bảo Quân (Yang Baoyun), Học viện Quan hệ Quốc tế - Đại học
Bắc Kinh Trung Quốc và Việt Nam là hai quốc gia láng giềng gần gũi, do vậy giữa
hai nước đã tồn tại quan hệ lịch sử lâu dài. Trải qua quá trình tiếp xúc lịch sử,
rất nhiều tư liệu lịch sử về hai quốc gia đã ra đời và tồn tại cho đến ngày
nay. Bài viết này giới thiệu vắn tắt về các tư liệu lịch sử của Trung Quốc liên
quan đến các dữ liệu lịch sử của Việt Nam. Nội dung của các tư liệu lịch sử của
Trung Quốc liên quan đến địa lý, thể chế chính trị, kinh tế, thói quen và tập
quán xã hội của người Việt Nam… Các tác giả cũng đã thể hiện các quan điểm và
tình cảm cá nhân về đất nước này. Do vậy, các tác phẩm đã trở thành nguồn tư liệu
lịch sử vô cùng quan trọng giúp người Trung Quốc hiểu biết về Việt Nam. Bài viết
cũng cố gắng chỉ ra các đặc điểm và hình ảnh của Việt Nam mô tả trong các
tư liệu lịch sử Trung Quốc qua các giai đoạn lịch sử khác nhau và các nguyên
nhân cũng được phân tích. Bài viết còn chỉ ra cho các học giả thấy rằng các
nghiên cứu về tư liệu lịch sử của Trung Quốc để hiểu được sự phát triển của
hình ảnh Việt Nam trong con mắt của người Trung Quốc sẽ là một công trình
nghiên cứu khoa học vô cùng ý nghĩa.
1.
Vài nét về sử liệu Trung Quốc có liên quan đến Việt Nam
Trung
Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng gần gũi, núi liền núi, sông liền sông,
như môi với răng, có quan hệ lịch sử lâu đời và khăng khít. Trong quá trình
giao lưu lâu dài giữa hai nước, sử sách của hai nước đã ghi chép lại rất nhiều
tư liệu về đất nước bạn của mình. Đặc biệt là do mối quan hệ mật thiết giữa
hai bên, hai nước đã thường xuyên trao đổi sứ thần và luôn liên hệ với
nhau. Các vị sứ thần đó trong quá trình đảm nhiệm sứ mệnh ngoại giao của mình
thường ghi lại những điều tai nghe mắt thấy về mọi mặt ở nước bạn trong thời
gian đi sứ, từ những con đường núi non hiểm trở, cảnh vật và con người,
đến những bài thơ phú ngâm vịnh để diễn tả những suy nghĩ và đánh giá
của mình trước những điều đã nghe đã gặp, những tác phẩm đó cũng trở
thành những sử liệu quan trọng nhằm tìm hiểu nước bạn của mình.
Nước
Việt Nam từ khi tự chủ (năm 968), một chế độ mới ra đời đã chấm dứt thời kỳ quận
huyện (hay còn gọi là thời kỳ Bắc thuộc) của Việt Nam, dù hai bên thiết lập một
quan hệ nước lớn và nước nhỏ, nhưng vẫn giao lưu với tư cách cơ bản bình đẳng với
nhau. Vì vậy nhiều triều dại phong kiến Trung Quốc luôn luôn cử đại sứ
sang Việt Nam. Những trước tác của các sứ thần Trung Quốc đã cung cấp rất
nhiều sử liệu cơ bản giúp người Trung Quốc hiểu về Việt Nam. Thí dụ: Một sứ thầnđời
Nguyên tên là Trần Phù(1) , đã đi làm phó sứ ở Việt Nam từ đầu đời
Nguyên đến năm 29 triều Nguyên (1292), đã viết cuốn sách Giai Châu cảo
(bàn thảo về Giao Châu) sau đó đã biên soạn thành hai cuốn Trần Cương
Trung An Nam lục và Trần Cương Trung xuất sứ thi.
Trong
Nguyên thi tuyển (Thơ chọn lọc đời Nguyên) phần tiểu truyện đã đánh giá hai cuốn
đó là “những bài thơ trên những nẻo đường lui tới Việt Nam, đó là những hình ảnh
kỳ lạ của núi sông non nước, thảo mộc, sinh vật và con người Việt Nam, không thể không
ghi chép lại, hoặc cũng giống như một bức tranh xưa đã phủ bụi thời gian, chuyện
hay, dở, xa gần không thể kể hết”.
Qua
đó có thể thấy những bài thơ đó có ích biết bao cho người xưa và nay trong việc
tìm hiểu địa lý và cảnh vật Việt Nam. Ngoài ra đời nhà Minh còn có các tác phẩm
của Từ Minh Thiện An Nam hành ký hoặc Thiên Nam hành ký, tác phẩm của Tiêu
Phương Nhai Sứ giao lục, tác phẩm của sứ thần Văn Tử Phương An Nam
hành ký và tác phẩm khuyết danh nguyên trinh sứ giao lục…(2)
Từ
đời Minh trở xuống, do mối quan hệ Trung Việt được tăng cường, triều đình
nhà Minh nhiều lần phái sứ thần sang Việt Nam, nên các tác phẩm viết về Việt
Nam cũng tăng lên nhiều. Trong số đó có Phụng sứ An Nam thủy trình nhật ký (Nhật
ký đi sứ Việt Nam bằng đường thủy) của Hoàng Phúc, Bình định giao Nam lục của
Nhạc Tiềm, hoặc còn gọi là Định Hưng Vương bình định giao Nam lục, An Nam đồ
chí của Đặng Trung, Sứ giao lục của Tiền Bạc và Sứ giao lục của Ngô Bá Tông…
Cùng
trong thời gian ấy còn xuất hiện một số lượng lớn các tác phẩm viết về lịch
sử và địa lý Việt Nam. Trong số đó có tác phẩm của Lý Văn Phượng viết
vào những năm Gia Tĩnh đời Minh Việt kiểu lục, gồm 20 tập, là một
tác phẩm sử học viết về Việt Nam trong sách xưa của Trung Quốc được
viết tương đối hệ thống và độ dày đáng kể. Trong Lời tựa của cuốn
sách, tác giả đã viết rõ bối cảnh sáng tác của mình: Khi họ Mạc đoạt ngôi
nhà Lý, triều đình muốn cất quân đi đánh, nhưng trong triều bàn tán
xôn xao, tác giả bèn viết cuốn sách này để khảo sát phong tục, núi sông
và lịch sử Việt Nam. Cuốn sách được chia nhiều mục như đường biên giới,
núi sông, chế độ thuế khóa tạp dịch, sản vật, phong tục tập quán, thư
chiếu, biểu hương, chế độ, thơ ca…
Các
học giả Trung Quốc đều nhận định rằng, những sự việc của Việt Nam được ghi
trong sách, về nội dung rất giống với cuốn An Nam chí lược của Lê Tắc, cuốn
sách dựa vào cuốn Chí lược họ Lê, có bổ sung thêm một số sự kiện từ đầu
đời nhà Minh đến năm Gia Tĩnh, cuốn sách đó cũng đã đổi đầu đề là An Nam
chí lược bổ. Nhưng nội dung cuốn sách này rất phong phú, những sử liệu được
thu thập về An Nam dưới thời nhà Minh rất cặn kẽ, có thể bổ sung những chỗ
bất cập của cuốn Minh sử – An Nam truyện.
Những
sắc dụ cơ mật được ban hành dưới thời Vĩnh Lạc phần lớn chưa đưa vào Minh Thái
Tông thực lục cũng là những tư liệu vô cùng quý giá, đã trở thành sách tham khảo
quan trọng nhất nghiên cứu về lịch sử An Nam, cho nên được những người đời sau
đánh giá “vừa mạch lạc vừa ngắn gọn, nói về ghi chép lịch sử nước láng giềng có
thể coi là hay vậy” [2].
Ngoài
ra còn có An Nam lai uy đồ sách gồm 3 tập của Phùng Thời Dương, Lương Thiên
Tích và An Nam lai uy tập lược gồm 3 tập. An Nam lai uy đồ tập có rất nhiều
tranh, nội dung ngắn gọn; còn Tập lược thì một số nội dung tỉ mỉ, thu thập rất
nhiều chiếu dụ của An Nam và biểu tấu của họ Mạc và Kỳ mục địa phương. Ngoài ra
còn có An Nam truyện của Vương Thế Trinh, An Nam chí của Tô Tiềm Soạn,
An Nam cung dịch kỷ sự của Chu Chi Du (tức Thuấn Thuỷ) một di dân cuối
đời nhà Minh, … đều là những tư liệu tham khảo quan trọng về tình hình Việt Nam
thời bấy giờ.
Đời
nhà Thanh là thời kỳ sự giao lưu Trung Việt được tăng cường, quan hệ giữa hai
nước có những thay đổi quan trọng, vì vậy thư tịch lịch sử của Trung Quốc viết
về Việt Nam cũng tương đối phong phú. Trong Tứ khố đề yếu còn ghi lại An
Nam sử sự ký của Lý Tiên Căn, An Nam kỷ du của Phan Đỉnh Quê và Hải ngoại kỷ sự
của Thích Đại Sán. Các tác giả đó đều đã đến Việt Nam, ghi lại những điều bản
thân mình tai nghe mắt thấy.
Ngoài
ra còn có An Nam kỷ lược của Nhiệm Đống và Khâm Định An Nam kỷ lược gồm
32 quyển được biên soạn theo lệnh của Càn Long năm thứ 56 (tức năm 1791).
Số lượng các sách truyện ký và lịch sử địa lý Việt Nam dưới thời Thanh tăng lên
nhiều, về nội dung càng ngày càng phong phú. Thí dụ như cuốn Tòng nhung Việt
Nam ký của Âu Dương Văn Tĩnh, Việt Nam Tân Văn lục của Vương Nghĩa Phất, An Nam
quân doanh kỷ lược của Trần Nguyên Nhiếp, An Nam chí của Dương Trọng Hưng (kèm
theo phụ bản An Nam quốc bình thế khảo lược), Sứ giao kỷ sự của Ô Hắc, Sứ giao
ngâm của Châu Xán,Việt Nam cương vực khảo của Nguỵ Nguyên, Việt Nam thế hệ diên
cách lược của Từ Diên Húc, Việt Nam khảo lục của Cung Sài, Tiếp hộ Việt Nam cống
sử lược của Giả Trăn và Việt Nam kỷ lược của Thẩm Lâm Nhất…
Cần
nói rằng những ghi chép của các sứ thần của nhiều triều đại Trung Quốc về
Việt Nam đã tạo nên nền tảng quan trọng trong sử sách Trung Quốc về Việt
Nam. Những ghi chép về Việt Nam trong sử sách chính thống của Trung Quốc và
trong nhiều thư tịch cổ của Trung Quốc phần nhiều được trích dẫn một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ các tác phẩm của các sứ thần Trung Quốc
đó, có sự gia công và nâng cao thêm để nội dung được tập trung và tinh
xác hơn, đóng góp những cứ liệu quan trọng cho các học giả nhân
văn cũng như người dân bình thường Trung Quốc tìm hiểu thêm về Việt
Nam.
Về
ý nghĩa, trong một chừng mực nào đó có thể nói, đó là nguồn thông tin
chủ yếu đem lại những nhận thức của người Trung Quốc thời ấy về hình ảnh
của đất nước Việt Nam.
Do
nhiều nguyên nhân, người viết bài này chưa thể tra cứu và đọc hết các tác phẩm
của nhiều sứ thần của các triều đại viết về Việt Nam. Tuy nhiên tôi cho rằng, rất
nhiều những ghi chép về Việt Nam trong thư tịch cổ Trung Quốc, trong thực tế
chính là những ghi chép, những điều tai nghe mắt thấy của các sứ thần ở các triều
đại hoặc của các nhà buôn, khách du lịch đã từng đặt chân tới Việt Nam, những
ghi chép đó đều phản ánh tương đối tập trung hình ảnh của đất nước Việt Nam lúc
bấy giờ trong con mắt của người Trung Quốc, đặc biệt là trong con mắt của các
văn nhân Trung Quốc. Chính vì vậy, khi viết bài này, người viết không câu nệ rằng
đó là trước tác của các sứ thần mà có ý mong muốn rằng thông qua những ghi chép
trong nhiều loại thư tịch cổ Trung Quốc về Việt Nam có nội dung rất phong phú
đó để quan sát và phân tích hình ảnh Việt Nam trong lòng người Trung Quốc.
Những
dẫn chứng trong bài này phần lớn được trích dẫn từ những ghi chép về Việt
Nam trong cuốn Thù vực châu tư lục do Nghiêm Tòng Giản đời nhà Minh viết, bởi
vì tác giả cuốn sách đó đã có một thời gian dài làm việc ở “Ty Hành nhân” được
lập trong cung đình nhà Minh chuyên theo dõi việc ngoại giao. Ông đã có điều kiện
tiếp cận với nhiều tư liệu có liên quan đến nước ngoài, đương nhiên bao gồm cả
các tư liệu về Việt Nam, ông đã gặp gỡ và đượcnghe các sứ thần trở về báo
cáo hoặc những tin tức các sứ thần đã viết. Vì vậy trong những tư liệu
đó, những nội dung liên quan đến Việt Nam không những tương đối phong phú
và toàn diện, hơn thế trong thực tế đã phản ánh rất nhiều hiểu biết và nhận
định của các sứ thần đã từng đến Việt Nam.
2.
Việt Nam trong sử liệu Trung Quốc
Tuy
Việt Nam và Trung Quốc núi liền núi sông liền sông, nhưng thời cổ đại với giao
thông lạc hậu, nên đường đi đến hai nước, nhất là thủ đô là trung tâm chính trị
của hai nước vẫn xa lắc xa lơ, không thuận tiện chút nào. Thí dụ, sử sách đời
nhà Minh đã ghi lại:
Kinh
đô Việt Nam ở triều Hậu Lê, tức là vị trí Hà Nội ngày nay “phía Đông giáp biển
Đông (320 dặm), phía Tây giáp Vân Nam và Lào (567 dặm) cho đến ranh giới
Chiêm Thành
(1900
dặm), phía Bắc giáp huyện Bằng Tường, phủ Tư Minh, Quảng Tây (400 dặm), đến Nam
Kinh (7700 dặm), đến Bắc Kinh (hơn 11000 dặm) mọi người đi lại đều phải quan Trấn
Nam Quan, châu Bằng Tường”(3).
Thời
đó Lê Lợi “xây dựng hai kinh đô Đông đô và Tây đô, chia đất nước thành 13 đạo
là:
Sơn
Nam, Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Dương, An Bang, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Minh
Quang, Lạng Hoá, Thanh Hoá, Nghệ An, Thuận Hoá, Quảng Nam. Ở mỗi đạo lập 3
ty, giống như 3 ty của Trung Quốc: Ty thừa chính, Ty hiến sát, Ty tổng
binh sứ. Đông đô ở phủ Giao Châu, Tây đô ở phủ Thanh Hoá”(4).
Do
núi non và biển cả cách trở, đường đi lại giữa hai nước Trung Việt vô cùng
gian nan vất cả. Đối với các sứ thần, đi sứ nước Việt không khác nào
bước vào đường gian truân. Vào năm thứ hai đời Minh Hồng Vũ (tức năm
1369), vua Minh cử Trương Dĩ Ninh, một viên quan hàn lâm có chức tri chế và
Điển Bạc Ngưu Lượng đi sứ An Nam, ông “nghĩ rằng An Nam là đất nước xa xôi
hẻo lánh, nơi sơn lâm chướng khí nặng nề, người xưa coi đó là đất
hoang dã, nơi quái nhân không ở, người hiền không đến, chỉ lo chướng
khí hại đến thân”, khi ông biết các sứthần đã đến đó bình an và làm xong sứ mệnh, chẳng
những vui mừng khôn xiết mà còn làm thơ mừng, trong đó có đoạn:
Sứ
giả vãng hoàn đa nghị thuyết,
Chướng
vân mai thụ nhược đôi yên.
Khanh
sơ phụng mệnh tiện tiền bôn,
Đạo
lộ kỳ khu thực thảm hồn.
Thiên
tầm thụ mạo viên phi tẩu,
Vạn
hác phong sinh chướng khí hôn.
Nhật
mộ điểu đề nhân bất đáo,
Nguyệt
thâm tượng hống dạ hoàn ôn(5).
Dịch
nghĩa:
Các
sứ giả đi về bàn tán nhiều,
Chướng
khí ùn ùn quấn chặt lấy cây.
Xưa
khanh vâng lệnh bôn ba hải ngoại,
Đường
sá ghập ghềnh não nuột lòng.
Đàn
vượn bay nhảy trên ngọn cây cao,
Chướng
khí dập dờn trên những ao đầm.
Sớm
chiều chim hót mà người chẳng đến,
Tiếng
voi gầm đem lại hơi ấm trong đêm.
Những
câu thơ trên đã phản ánh đầy đủ cảm nhận của tầng lớp quan lại đời nhà
Minh về hoàn cảnh địa lý của Việt Nam lúc bấy giờ.
Về
khí hậu, ấn tượng sâu sắc nhất của người Trung Quốc đối với Việt Nam là nóng nực.
Các sách lịch sử đời nhà Tống đã ghi rõ:
“Đất
này nóng nhiều, không có không khí lạnh, kể cả mùa đông cũng phải ôm áo
mà phe phẩy quạt”(6).
Qua
ghi chép trong sử sách Trung Quốc thì Việt Nam “khí hậu thường là ấm, sản vật của
xứ sở này chỉ có lúa, không có lúa mì”(7), “một năm ba vụ lúa, tám vụ tằm
tơ”(8). Qua đó có thể thấy trồng lúa nước và trồng dâu nuôi tằm là hoạt động
nông nghiệp quan trọng của Việt Nam. “Đất nước này cũng có các loại vải nhẹ, có
hàng dệt bông và tơ và lụa, như lụa trắng rộng trên hai thước ta”(9), có thể
nói chất lượng rất tốt. Ngoài ra, Việt Nam “có lợi thế về cá và muối”(10), “dân
đã chưng nước biển để lấy muối, cất rượu bằng gạo”(11), xung quanh nhà dân “trồng
nhiều tre, mía, dừa, mùa nào cũng có quả”(12), qua đó có thể thấy người dân ở
đây đã tận dụng yếu tố thiên thời địa lợi như thế nào. Đồng thời Việt Nam cũng
là xứ sở rất phong phú vềsản vật quý và lạ, như vàng, bạc, đồng, thiếc, chì,
ngà voi, lông chim, quế, cau(13), ngọc trai, đồi mồi, chu sa, trầm hương, hương
trầm, dầu thực vật, hồ tiêu, sừng linh dương, tê giác, hươi nai, tinh tinh, ngọc
phỉ thuý, rắn trăn, kiến dầm muối, quả am-la, quả mít, ô mộc, tô mộc (14)…
Sử
sách Trung Quốc cũng có ghi chép nhiều về hoạt động buôn bán của Việt Nam,
“hàng hoá trao đổi gồm tơ lụa vải vóc đủ màu, vải đen, lược ngà, giấy má,
đồng thau, sắt…”(15). Trong sử sách đời nhà Tống, khi nhắc đến Việt Nam “chưa
đúc được tiền, toàn dùng tiền nhỏ của Trung Quốc, đều là do các nhà buôn bỏ ra
cả”(16). Những ghi chép trong sử sách đời nhà Nguyên đã nói rõ hơn “sử dụng
tiền đồng trong lưu thông mua bán. Trong dân gian cứ 67 đồng thì ngang một
lạng bạc, các quan thì quy định 70 đồng”(17).
Lúc
bấy giờ “các thuyền nhân không mua bán đất, chỉ buôn bán ngấm ngầm ngang tắt,
không muốn qua cửa quan, chỉ lo người Trung Quốc thấy được thực trạng của đất nước
mình”(17).
Vì
các sứ thần đều là những người gánh trọng trách của chính quyền quốc gia nên họđều
ghi chép tương đối tỉ mỉ những nhận định về chế độ chính trị của Việt Nam. Thí
dụ về chế độ quan chức từ Trung ương đến địa phương và các cấp quan lại, họ đã
ghi như sau: “Sáu bộ (lục bộ) đều có Thượng thư, Tả thị lang, Hữu thị lang; Sáu
phòng (lục khoa) đều có các quan Đô cấp sự trung và Cấp sự trung; Lục tự (tự là
tên một cấp quan) có các quan tự khanh, thiếu khanh, tự thừa; Ty thông
chính có Thông chính sứ, Thông chính phó sứ; tại Ngự sử đài có Đô ngự sử, Phó
đô ngự sử, Thiên đô ngự sử, Đề hình, Thập tam đạo giám sát; Ở Viễn Đông
các có Đông các đại học sĩ, Đông các học sĩ; Viện Hàn lâm có Chưởng
viện, Thừa chỉ, Thị giảng, Thị độc, Biên tu, Hiệu thư, Kiểm thảo; Ở
Trung thư giám có Trung thư xá nhân, Chính tự, Hoa văn; các Ty trực thuộc 6 bộ
thì có Lang trung, Viên ngoại lang; tại Ty ngoại thừa chính thì có Thừa
chính sứ, Tham chính, Tham nghị; tại Ty Hiến sát thì có Hiến sát sứ, Hiến
sát phó sứ; các quan thủ lĩnh thì có Kinh lịch, Lục sự, Tri bạc, Suy quan,
Chủ sự; quan trực tiếp cai trị dân (xưa gọi là mục dân quan, ví dân
như súc vật, quan là người chăn giắt) thì có Tri phủ, Đồng tri phủ, Tri
huyện, Huyện chưởng, Tri châu, Đồng tri châu; tại các phủ huyện trực
thuộc (trực lệ) thì có Phủ doãn, Thiếu doãn, Trị trung, Huyện
úy, Thông phán. Các chức danh quan võ Ngũ phủ,… có Sở phủ đô đốc, Tả
đô đốc, Hữu đô đốc, Đồng tri, Thiên sự; tại Điện Trực Kim Quang có
hai đội (còn gọi là vệ) Cẩm y, Kim Ngô thì có Chưởng vệ Đô chi huy sứ, Đồng tri;
Thiên sự; Tại 3 Ty của Điện Thần Vũ Hiệu Lập thì có có Đề đốc, Tham đốc,
Đô kiểm điểm, Tả và Hữu kiểm điểm; Các đội (vệ) ở phiên trấn thì có Tổng
binh, Sứ tổng binh, Đồng tri, Thiên sự; tại Ty thị vệ trong nội
các thì có Chỉ huy sứ, Đồng tri, Thiên sự; Các đội thị vệ tại ngoại
thì có Thiên hộ, Bá hộ, Thống chế; tại ngoại thì có Quản lãnh vũ úy; các sở
ở vùng biên giới thì có Kinh lược sứ, Kinh lược đồng tri, Thiên sự. Lại
còn đặt ra 5 tước: công, hầu, bá, tử, nam. Đó là chế độ quan văn võ.
Các
quan chức khác ở các ty, các giám và các chức quan nhỏ khác còn nhiều lắm,
không thể nào ghi chép hết được”(18). Trong sách sử đời nhà Minh còn ghi
rõ: “Phong tục của họ trọng võ, vượt tước vị gọi là quận công, có đến
hơn 100 người, dưới tước hầu thì không tính, còn quan văn chỉ nắm văn thư
cố sự mà thôi”(19).
Cũng
có những sách ghi chép rằng: Việt Nam “gọi quý nhân là ông trà, ông trà
có nghĩa là quan to”(20). Cũng có sách viết “phẩm trật trong quan chế
Việt Nam giống như người Hán, áo mũ cũng vậy”(21).
Trong
lựa chọn và đề bạt các quan “đều đặt lệ thi cử, định các hệ quan văn võ”, “chế độ
khoa cử thì có thi Hương, thi Hội. Thi Hương được tổ chức vào mùa thu các năm
Tý, Ngọ, Mão, Dậu, đỗ tam trường gọi là sinh đồ, đỗ tứ trường gọi là cống sinh.
Còn thi Hội được tổ chức vào các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi vào mùa xuân, đỗ tứ
trường được phong Đồng tiến sĩ xuất thân, đỗ ngũ trường được phong Tiến sĩ cập
đệ.
Lại
còn có tam khôi: Đệ nhất danh, Đệ nhị danh, Đệ tam danh(22)”. Về nội
dung thi “chọn người theo hai khoa kinh nghĩa và thi phú”(23) trong đó “đệ nhất
trường dùng văn của cửu kinh; đệ nhị trường thi văn chiếu, tế, biểu; tam trường
thi văn thơ phú; tứ trường thi loại văn đối sách; ngũ trường phải vào
cung thi trước mặt nhà vua và phải dùng văn đối sách”(24).
Có
sách còn ghi “Dùng khoa cử để chọn người tài, cũng không khác gì giáo
dục của Trung Quốc xưa vậy”(25), điều đó đã nói lên mối liên hệ giữa khoa
cử Việt Nam với khoa cử Trung Quốc.
Về
chế độ quân đội của Việt Nam, trong sử sách Trung Quốc cũng ghi chép rất tỉ mỉ.
Thời nhà Tống, các đô thành Việt Nam đều “trong thành không có dân, chỉ có hàng
trăm khu trại lính được dựng nhà tranh. Các phủ, sở cũng chật hẹp, trên cửa đề
Minh Đức Môn, chỉ huy và binh lính gần 3000 người, trên trán có xăm 3 chữ
“Thiên tử quân”. Lương thực được cấp thóc hàng ngày, họ phải tự giã để ăn.
Binh khí thì có cung nỏ, mộc bài, súng gỗ, súng tre, người yếu không thể sử dụng
được”(26).
Đến
đời Minh “các ty và vệ nội và vệ ngoại, mỗi vệ, ty có 6 sở: trung, tiền, hữu, tả,
hậu, sủng, mỗi sở có 15 đội, mỗi đội 55 người, thường 6 năm một lần chọn các
tráng đinh, những người khỏe mạnh để sung vào quân ngũ, những người yếu thì về
với dân. Những người sức khỏe thật tốt thì sung vào đội “Kiêu dũng quân” thuộc
các vệ, là đội quân chiến đấu khi đất nước hữu sự; sức khỏe loại 2 thì sung vào
Kỳ quân ngũ, đó là đội quân vận chuyển lương thực. Lính đã ở lâu trong
quân ngũ có thể trở về quê cày cấy làm ăn, lo nghiệp nhà. Mỗi lần thiết triều,
các vệ phải điểm danh, Kiêu dũng quân phải trực ở vệ sở, sức khỏe loại 2 thì nộp
tiền được trở về nhà, nhưng lúc hữu sự thì lại bị điều động sử dụng.
Một
vệ được gọi là một doanh, một sở được gọi là một kỳ, đó là theo binh chế
cũ. Khi đất nước loạn lạc thì quân đội phân tán ra các thôn ấp, điều động rất
chậm chạp, khó lòng ứng biến, lại tạm thời áp dụng chế độ quân ngũ nông
thôn kiểu cha con (phụ tử binh). Mỗi một ty hành chính bố trí một viên
quan cai quản, mỗi phủ một phó đô tướng, mỗi huyện, châu bố trí một phó tướng,
bao gồm cả số dự bị bổ sung. Các châu, huyện lớn được chọn một nghìn lính tinh
nhuệ; huyện vừa thì chọn 800; huyện và châu nhỏ thì chọn 600 hoặc 500. Thêm vào
đó một lính và hai người vận chuyển lương thực, số người còn lại phải nộp lương
thảo. Khi một nơi nào đó có đánh nhau thì điều động đến mức cao nhất, nếu
không có việc gì thì trả tất cả về.
Khi
có giặc tiến gần biên giới thì tự bảo vệ nhau. Những vùng đất thuộc huyện,
châu mình, nếu là nơi xung yếu cần tăng thêm quân để trấn giữ, với binh lính trấn
giữ đô thành, cũng có chế độ đối với mới và cũ.
Quân
thường trực và các võ sĩ dũng mãnh đều hưởng lương quan lại và chuyên được giữ
lại làm túc vệ (quân ở doanh trại). Về sau do sự phân chia Nam Bắc nên hai bên
đều tuân theo chế độ ấy. Binh lính phải dũng cảm nhanh nhẹn, phải thiện chiến.
Đánh nhau nếu thuận lợi thì thừa thắng truy đuổi, nếu không thuận lợi thì rút về
căn cứ hiểm yếu. Lính giữ thành và lính cơ động đều như vậy cả”(27).
Một
số ghi chép dưới thời nhà Minh lại cho rằng Việt Nam “không có thành quách,
quây pháo làm tường thành, quân đội và dân ở xen lẫn với nhau”. “Quân chế không
có định mức, khí giới chỉ dùng pháo hỏa, đao kiếm là thứ yếu”. “Quốc gia coi
nhiều voi nhiều lính là mạnh, lấy số lượng đánh giá, voi mỗi con
không quá 3000, lính thường giữ số 10 vạn, tương truyền do Phục Ba tướng
quân đặt ra lệ ấy. Đi dọc sông quanh thành khoảng 50-60 dặm, các chiến
thuyền lúc gặp tình thế hiểm nguy thì giấu thuyền vào bờ. Những thuyền
đó sơn đỏ sơn vàng, chuẩn bị người đầy đủ, có lẽ nước ấy muốn khoa trương
sức mạnh”(28). Lính mặc một hoặc hai áo màu xanh tay rộng, trời nóng
thì cởi trần, không có mũ sắt. Binh khí thì có súng hỏa mai,
khiên, đao… lúc cần không đủ dùng”(29).
Lúc
chiêu mộ binh lính, “biên chế đội ngũ dựa vào luật lệ thu thuế nghề nông,
cho nên phong tục của họ sinh con gái thì mừng, sinh con trai thì lo. Nam xếp
vào là đinh, đến mức quy định phải vào quân ngũ và phải cạo tóc ở trán
khoảng một tấc đê phân biệt với thường dân”(30).
Nhưng
ghi chép trong sử sách Trung Quốc về mặt văn hóa giáo dục cũng rất phong phú. Rất
nhiều sử liệu đều đề cập đến vấn đề sử dụng chữ Hán ở Việt Nam, có tài liệu viết:
Nước này “đều dùng chữ Hán của Trung Hoa, không quen dùng chữ của các nước
khác”(31), “ngâm thơ đọc sách, đàm đạo triết lý, sáng tác văn chương đều gần giống
Trung Quốc, chỉ có lời phát âm hơi khác, lạtai”(32).
Có
tài liệu ghi rằng “văn tự giống như Trung Quốc. Họ còn sáng tạo thêm một số chữ,
phần lớn thêm bộ thổ ở bên trái, nhưng trên các văn thư trao đổi với sứ thần
thì không dùng những chữ đó”(33), điều đó rõ ràng là nói tới chữ Nôm của Việt
Nam. Sử sách đời Tống còn ghi “Việt Nam chưa làm được giấy và bút,
thường phải tìm ở đất khác”(34). Điều đó nói rõ rằng thời ấy, Việt Nam
thường phải qua đất Quảng Tây, Quảng Đông để mua giấy, bút và các đồ dùng
văn phòng khác. Nhưng, nghệ thuật thư pháp Việt Nam cũng có những nét
đặc sắc của nó.
Theo
ghi chép của Phan Đỉnh Quê, một người đã từng đến Việt Nam thì nước này “thư pháp
theo kiểu tống thể, cách viết của mọi người đều giống nhau, rất khó phân biệt đẹp
xấu. Tôi đã từng đàm đạo với các sĩ phu đểtìm nguyên do, phần lớn đều nói người
nước tôi học chữ đều học cách ghép thành một chữ, cách khác tách nét từng chữ,
làm cho nét chữ không có gì khác nhau, sau đó ghép thành một chữ, đó cũng
là một cách vậy. Khi viết học ngồi bệt xuống chiếu, hai cổ tay không tì xuống
chiếu, tay trái giữ giấy, tay phải cầm bút, tuy lúc thi xạ sách ở triều đình (xạ
sách là một môn thi, chủ khảo nêu vấn đề, thí sinh viết đáp án – ND) phải viết
kiểu chữ Khải (kiểu chữ chân phương – ND), rõ ràng, nếu không thì rất khó mà vượt
trội vậy”(35).
Về
chế độ trường học của Việt Nam, ở kinh đô có Quốc tử giám, tất phải có Tế
tửu, Tư nghiệp, Tiến sĩ thông thạo ngũ kinh, Giáo thụ để dạy các cống sĩ (Tú
tài và Cử nhân). Lại còn có Sùng văn quán, Tú lâm cục, ở đây tất phải có Hàn
lâm việc kiêm Chưởng quan để dạy các hạng nho sinh con em các quan ở Viện
Sùng văn, Tú lâm. Tại các phủ thiết lập trường học Văn miếu, có các quan Huấn đạo
nho học để dạy các sinh đồ”(36). “Hễ là con em của dân thường, cứ đủ 8 tuổi là
vào tiểu học, 15 tuổi vào đại học”(37). Về nội dung học tập “kẻ sĩ đi học, phần
lớn vẫn là “cương giám” (lịch sử) và “tính lý” (học thuyết nói về
tính cách con người và sự vật đều do trời sinh ra cả – ND)(38), “tam
cương, ngũ thường cùng với chính tâm tu thân là gốc của tề gia, trị quốc, văn
chương lễ nhạc, tất cả đều phải học đủ”(39).
Về
tình hình đời sống của xã hội Việt Nam thời cổ, những ghi chép của đồ nhà Minh
đã viết: “Họ sống chung chạ, ít hiểu biết về lễ nghi, tính nết thô bạo, thích
đánh nhau, trọng giàu, khinh nghèo”(40), “Phong tục sống chung chạ. Có người cắt
tóc, có người búi tóc, môi đỏ răng đen, đi chân đất, xăm vẽ đầy mình. Ưa tắm
lúc nóng nực nên giỏi hơi thuyền lội nước”(41). Về mặt trang phục, Minh Thái Tổ
đã có bài thơ miêu tả như sau: “Người dân coi việc đi chân đất là lệ làng,
cạo tóc áo quần như thầy tu nơi hoang dã”(42).
Những
ghi chép đời nhà Thanh còn nói rõ: “Tóc họ để đuôi dài sau lưng, được chải bằng
sáp nên không bị tơi xõa. Chân đi đất, họ coi đất như là cát sạch vậy. Áo của
con trai, con gái, đàn ông, đàn bà đều không có cổ đứng, khó phân biệt, không
có quần váy, con gái mặc váy thùng, không gấp nếp, vua và quan thì đi tất che đến
đầu gối nhưng họ vẫn không ưa lắm. Các phu kiệu cầm lọng quạt của nhà vua chỉ
được quấn vải từ mông đến rốn, mùa đông cũng không có áo”(43).
Về mặt
kiến trúc, “chỉ có nhà vua mới được dùng ngói màu vàng, quan và dân không dám
dùng ngói, chỉ được lợp bằng cỏ, cột, kèo bằng tre, mái hiên nhà chỉ cho phép
cao 4 thước ta, cửa cao không được quá 3 thước ta, phải cúi đầu khom lưng
mới vào được, ngay cả cửa ở cung vua cũng không được cao quá mười thước
ta”(43).
Về
các đồ dùng trong nhà của Việt Nam thì “nhà sang mới có giường và đệm,
còn dân thường không có. Những người sang trọng thì đi cáng, hai người khiêng.
Hạng đại quý tộc thì có kiệu giống như xe, lên kiệu rồi thì ngồi xếp bằng,
có 4 người hoặc 8 người khiêng”(43), “họ không có bàn ghế. Riêng với
các sứ thần, họ làm ghế ngồi vừa cao vừa rộng. Bàn yến tiệc của họ hình
tròn, sơn son thiếp vàng, được phép cao khoảng một thước ta, viền xung
quanh như cánh hoa”(43).
Về
phong tục tập quán Việt Nam, có người cho rằng “phong tục của họ dâm đãng,
không biết xấu hổ, khi tắm ngâm mình xuống nước, đàn ông đàn bà đều tắm truồng,
đi lại, đứng ngồi không né tránh nhau, kể cả nhà quyền quý cũng thế”. Tập quán
ăn trầu của người Việt Nam đã để lại những ấn tượng sâu sắc: “Lúc nào cũng nhai
trầu, chỉ có lúc ngủ là dừng mà thôi. Răng thì nhuộm đen bóng, thấy người có
răng trắng lại còn cười lại họ”(43).
Về
phong tục cưới xin, “đến ngày đã định con trai con gái tụ tập thành hàng thành
lối, kết những quả cầu ngũ sắc, vừa hát hò vừa tung cầu, họ gọi trò chơi đó là
“tung còn”, con gái nhận còn coi như việc hôn nhân của nhà trai đã được quyết định”(44).
Xem ra cách ấy cũng giống như cách tung quả tú cầu đểđịnh đoạt hôn sự vậy.
Theo
một số ghi chép trong sử sách Trung Quốc thì địa vị xã hội của người phụ nữ Việt
Nam trong thời cổ đại tương đối cao. Thí dụ trong quan hệ hôn nhân, nam phải
được người nữ lấy, nữ giới chính là lấy người. Nữ giới lấy chồng nếu không
có của hồi môn cho nhà trai thì bị coi là hèn hạ, vô tích sự.
Trong lúc đó có thổ dân lấy được vợ đẻ con trai mới được về nhà chồng,
đẻ con gái thì không được về, vì thế con gái quý hơn con trai”(45).
Trong
buôn bán phụ nữ cũng chiếm một địa vị rất cao. Dù con trai nhà quan cũng
không
kiêng
kỵ ra chợ mua bán con gái. Không phải phiên, hàng nghìn con gái cũng được
mang ra bán(45).
Ngoài
ra, tục ngũ có câu: “Đất bao nhiêu thì nuôi người bấy nhiêu”. Những người Trung
Quốc đã đến Việt Nam còn nhận xét rằng “Hai châu Hoan và Diễn (tức là đất Nghệ
An ngày nay – ND) văn học phát triển, hai châu Giao và Ái (tức là đồng bằng Bắc
Bộvà Thanh Hóa – ND) thì nhiều người hào phóng, so với các nơi khác cũng hơi đặc
biệt”(46). Qua đó có thể thấy người Trung Quốc nhận xét rất tỉ mỉ.
Một
điều đáng nói nữa là, trong quá trình giao lưu giữa Trung Quốc và Việt từ rất sớm
đã có hiện tượng người Trung Quốc di cư sang Việt Nam và do nhiều nguyên
nhân, một số định cư lại Việt Nam. Thí dụ những tài liệu từ đời nhà Tống ghi rõ
sau khi đất nước Việt Nam giành được độc lập tự chủ không lâu, do “người bản
xứ ở đây không thạo về văn tự, nên những nhà buôn từ Phúc Kiến đến, tất phải tiếp
xúc, vì các quan muốn giải quyết công việc, các văn bản đều do khách đề xuất.
Tương truyền rằng ông Lý Công Uẩn vốn người Mân (tức là Phúc Kiến – ND). Lại có
cả những người có tài năng, những nhà sư, đạo sĩ, các nhà kỹ thuật và tôi tớ của
họ trốn sang đây rất nhiều”. Có thể thấy rõ những người đó được các nhà
đương cục Việt Nam trọng đãi họ đã lưu lại định cư và phục vụ cho chính
quyền thời ấy. Nhưng cũng có một số ít là bị cướp sang Việt Nam làm
nô tì: “Thổ dân ở nước này rất ít, một nửa là dân thành phố. Một số lữ
khách ở vùng Nam Châu dụ dỗ người đi làm nô tì, tôi tớ nhưng đến Châu
Động thì trói lại và đem bán, giao người ở Châu Động, lấy hai lạng vàng,
người có tài nghệ thì được bù thêm, người giỏi văn chương chữ nghĩa cũng được bù
thêm. Bị trói tay và bị đuổi đi, những người này không biết đường về. Đến
địa điểm thì người bị bán được giao cho người mua và làm tôi
tớ suốt đời, bị xăm chữ lên trán, phụ nữ thì bị xăm vào vú, bị quản
thúc chặt chẽ để đề phòng họ trốn”(47).
Từ
đó người Trung Quốc di cư sang Việt Nam ngày càng nhiều, cho nên có
tài liệu lịch sử đã chép “vào thời loạn lạc đời nhà Minh, số người
lưu lạc sang ngụ cư ở đất nước láng giềng có đến hàng triệu”(48).
3.
Một số nhận định về những ghi chép có liên quan đến Việt Nam trong sử sách
Trung Quốc
Trước
hết, cần nói rằng những ghi chép xa xưa của Trung Quốc về Việt Nam là phong
phú, về đại thể là tương đối khách quan. Nhưng do tư cách cá nhân và quá trình
từng trải của các tác giả có khác nhau, những nơi họ đặt chân đến cũng khác
nhau, góc độ quan sát của họ cũng khác nhau, thậm chí có thể do nguyên nhân những
người khác đã sửa chữa trong quá trình xử lý những sử liệu đó, nên đã xuất hiện
những điểm không thống nhất về sử liệu ở một số mặt nào đó, thậm chí có những
điểm mâu thuẫn với nhau. Thí dụ, một số ghi chép dưới đời nhà Thanh cho rằng “ngà
voi, dược liệu thơm, bông, hồ tiêu, hoa hồi, dấm là từ nước ngoài nhập
vào”(49). Mà đoạn trên khi trích những ghi chép về sản vật Việt Nam,
chúng ta có thể thấy rõ rằng ớ đấy có ngà voi, và các sản vật quý hiếm
như hương liệu. Hoặc, trong một số ghi chép dưới thời nhà Nguyên nói
rằng “phong tục lễ nghi mang phong cách Trung Quốc”(50) nhưng những
ghi chép dưới thời nhà Minh lại nói rằng “tính nết thô bạo”(51). Vì vậy cần
có sựđối chiếu và phân tích các nguồn sử liệu đương thời mới có thể tìm hiểu
và đánh giá một cách toàn diện, khách quan trình độ nhận thức của người
Trung Quốc cổ xưa về Việt Nam.
Thứ
hai, từ ngày nước Việt Nam giành được độc lập (năm 968), do vẫn duy trì mối
quan hệ nước thiên triều và nước chư hầu với các triều đại phong kiến Trung Quốc,
cho nên các tác giả của sử sách Trung Quốc viết vềViệt Nam, bao gồm các vị đế
vương, sứ thần, nhà buôn, khách du lịch cùng các học giả, văn nhân đều hoặc ít
nhiều chịu ảnh hưởng và sự chi phối của quan niệm đó. Thí dụ trong một bài
thơ của Minh Thái Tổ có câu:
Lĩnh
Nam nam, hựu Hải Nam biên,
Duy
hữu An Nam phụng ngã thiên(52).
Có
nghĩa là:
Phía
nam Lĩnh nam, lại bên cạnh Hải Nam
Chỉ
có nước An Nam là tôn sùng trời của ta.
Sử
liệu đời nhà Tống cũng đã từng viết:
“Khi
sứ giả của ta đến, tù trưởng tất phải dắt ngựa ra khỏi thành, triển khai nghi lễ
đón tiếp nước lân bang, nét mặt phải nghiêm trang, phải cúi lưng, vấn an
hoàng thượng. Họ bá cổ nhau cùng đi, thỉnh thoảng dẫm chân giơ thẳng
sào, lặn xuống nước đâm cá, mỗi lần đâm trúng cá, mọi người hò reo ầm ĩcoi
đó là niềm vui”(53).
Triều
đình nhà Nguyên tỏ ra bất mãn khi vua An Nam không chịu quỳ để nhận
chiếu thư, “người đi sứ sau một năm đi về phải tâu, quốc vương mỗi lần
nhận chiếu chỉ của thiên tử chỉ phải khoanh tay không phải lạy, khi tiếp
hoặc mở tiệc đãi sứ giả thì được ngồi trên sứ giả một bậc… Chiếu chỉ
của thiên tử các thần đều phải cúi lạy tiếp nhận, đó là đạo nghĩa từ cổ
chí kim, không có ngoại lệ”(54).
Cho
đến đời Minh lệ đó vẫn tiếp tục, chẳng hạn “năm Canh Ngọ đời Cảnh
Thái (tức năm 1450), sứ thần Biên Vĩnh ban chiếu cho An Nam, vua quan của nước
ấy đều đến Toà của sứ thần nghênh tiếp, cúi lạy trên thềm – Vĩnh Chính Sắc
đã trách rằng: “An Nam vốn là nước láng giềng nổi tiếng về lễ nghĩa,
không hiểu sao nay lại ngạo mạn như thế! Mọi người hoảng sự cúi lạy
trên thềm(55).
Đời
nhà Thanh các sách còn viết: “tôn nước Trung Hoa ta là thiên triều, coi
người Trung Hoa ta là người của thiên triều, vẫn như thể chế ngày xưa vậy”(56).
Ảnh hưởng
của quan niệm nước lớn nước nhỏ ấy, có lúc đã ảnh hưởng nhất định đến
tính khách quan trong quan sát và ghi chép của các tác giả đối với xã
hội Việt Nam.
Thêm
vào đó do tập tục xã hội của hai nước Trung Quốc và Việt Nam cũng có những điểm
khác nhau nên các sứ thần Trung Quốc cũng như những người Trung Quốc khác đã từng
đến Việt Nam thường quan sát và đánh giá Việt Nam về nhiều mặt theo
quan niệm truyền thống của Trung Quốc để từ đó có những kết luận riêng của
mình. Trong đó có những miêu tả và đánh giá về phong tục tập quán Việt
Nam có thể đem lại cho người khác ấn tượng không đẹp.
Song
chúng ta cũng nên nhận thấy rằng trong thời xa xưa giao thông khó khăn và thiếu
thông tin ấy, những ghi chép về Việt Nam trong sử sách cổ Trung Quốc vẫn là nguồn
chủ yếu để người đương thời tìm hiểu về Việt Nam và những ghi chép đó quả thật
đã có ảnh hưởng vô cùng quan trọng trong lòng người Trung Quốc (chủ yếu là các
văn nhân học giả) về hình ảnh Việt Nam. Ngày nay chúng ta nghiên cứu những nhận
định và ấn tượng của người Trung Quốc xưa về Việt Nam, chính là để hiểu thêm
nguyên nhân đã nảy sinh ra những nhận định đó và hậu quả của những nguyên
nhân đó.
Nhìn
chung cách nhìn của các văn nhân học giả Trung Quốc về Việt Nam đều muốn
hướng tới sự khách quan, chính xác, song do ảnh hưởng của quan niệm
phong kiến và nguồn thông tin khó khăn này nên đã nảy sinh một số vấn đề
và sai lạc. Qua việc phân tích một số tác phẩm ởnhiều thời kỳ khác nhau và
của các tác giả cương vị khác nhau để chắp nối lại sự hình
thành những nhận định của người Trung Quốc về hình ảnh Việt
Nam cùng những thay đổi, sẽ là công việc nghiên cứu khoa học đầy ý
nghĩa.
Tài
liệu tham khảo
[1] Hà Thiên
Niên, “Lược thuật về thư tịch cổ Trung Quốc qua các thời đại viết về Việt
Nam”, in trong “Học báo nhân học Đại học sư phạm Tây Nam”, Khoa học Xã hội
nhân văn, số 11/2002, tr. 129-133.
[2] Trương Tú Dân, “An
Nam thư mục đề yếu”, Tập san Thư viện Bắc Kinh, số 1/1996.
(3) Nghiêm Tòng Giản (đời
Minh), “Thư vực châu tư lục”, quyển 6, “An Nam”[2].
(4) Minh sử, quyển 321
“Liệt truyện” thứ 209, phần 2 “Ngoại quốc” – “An Nam”.
(5) Nghiêm Tòng Giản (đời
Minh), “Thi vực châu tư lục”, quyển 5, “An Nam”.
(6) Trịnh Tủng (đời Tống),
“An Nam kỷ lược” (dẫn theo Trương Tú Dân [2, tr.58]). “Tống sử”, quyển 488, Liệt
truyện thứ 247, “ngoại quốc” 4: Giao Chỉ có viết: “Địa vô hàn khí, tháng
11 giáp y huy phiến”.
(7) Lý Tiên Căn
(đời Thanh), “An Nam tạp ký”.
(8) La Viết Quýnh, “Hàm
Tân Lục” Nam Di Chí, quyển 6, “An Nam” nhưng căn cứ vào “Minh sử” quyền 321,
“Liệt truyện” thứ 209, “Ngoại quốc” 2, phần ghi chép về An Nam
thì “An Nam đất nghèo,
khí hậu nóng, một năm chỉ hai mùa lúa”.
(9) Lý Tiên Căn (đời
Thanh), “An Nam tạp ký”.
(10) La Viết Quýnh (đời
Minh), “Hàm Tân Lục” Nam Di Chí, quyển 6, “An Nam” nhưng căn cứ vào “Minh sử”
quyền 321, truyện 209 trong “Liệt truyện”, “Ngoại quốc” 2, ghi chép về An Nam
thì “An Nam đất nghèo, khí hậu nóng, một năm chỉ hai mùa lúa”.
(11) Uông Đại Uyên (đời
Nguyên), “Đảo di chí lược”, đoạn nói về “Giao Chỉ”.
(12) Lý Tiên Căn
(đời Thanh), “An Nam tạp ký”.
(13) Uông Đại
Uyên (đời Nguyên), “Đảo di chí lược”, đoạn nói về “Giao Chỉ”.
(14) Nghiêm Tùng Giản
(đời Minh), “Thư vực châu tư lục”, quyển 6 “An Nam”.
(15) Uông Đại Uyên (đời
Nguyên), “Đảo di chí lược”, đoạn nói về “Giao Chỉ”.
(16) Trịnh Tủng (đời Tống),
“An Nam kỷ lược” (dẫn theo Trương Tú Dân [2, tr.59]. Tuy nhiên, qua bài viết
Trương Tú Dân cho rằng ghi chép về vấn đề “chưa đúc được tiền” là
không đúng. Từ năm 981
đến năm 988, Lê Hoàn đã đúc đồng tiền “Thiên phúc chấn bảo”, mặt sau có chữ LÊ,
đó là đồng tiền xưa nhất của Việt Nam. Đời nhà Lý chưa chắc đã không đúc
được tiền, nhưng vì trong nước thiếu đồng, nên đúc một số lượng ít mà
thôi.
(17) Uông Đại Uyên (đời
Nguyên), “Đảo di chí lược”, đoạn nói về “Giao Chỉ”.
(18) Nghiêm Tòng Giản
(đời Minh), “Thù vực châu tư lục”, quyển 6, “An Nam”, theo sách “Lịch triều hiến
chương loại chí” của nhà sử học Việt Nam Phan Huy Chú, phần viết về “Quan
chức’ ghi rõ năm thứ nhất đời Lê Hồng Đức (1470), mùa thu “đã đặt ra quan chế
trong triều… có lục bộ, lục tự, lục khoa, ngự sử đài, Hàn lâm viện, Đông các,
Quốc tử giám, Quốc sử viện, Phủ doãn, Phủ cung sư (tức quan Đông Cung), Tư
Thiên giám, Thái y viện, Bí thư gián, Trung thư gián, Hoa văn gián đều thuộc
các chức cơ vụ nội bộ. Thừa tuyên, Phủ huyện, các nha môn ở châu là những
chức quan gần dân (các quan khuyến nông, đê điều)”. Có thể thấy sửsách Trung Quốc
ghi chép khá đúng và tỉ mỉ.
(19) Phan Đỉnh Quê (đời
Thanh), “An Nam kỷ dư”.
(20) Lý Tiên Căn (đời
Thanh), “An Nam tạp ký”.
(21) Phan Đỉnh Quê (đời
Thanh), “An Nam kỷ dư”. Trong “Lịch triều hiến chương loại chí” cũng viết “Phẩm
phục thời Lý, Trần ở nước Việt phần lớn giống thời Tống, thời Lê cũng áp dụng
như vậy”.
(22) Nghiêm Tòng Giản
(đời Minh), “Thù vực châu tư lục”, quyển 6, “An Nam”.
(23) “Minh sử”, quyển
321, “Liệt truyện” số 289, “Ngoại quốc” 2: “An Nam”.
(24) Nghiêm Tòng Giản
(đời Minh), “Thù vực châu tư lục”, quyển 6, “An Nam”.
(25) Trương Nhiếp, “Đông
Tây dương khảo”, quyển 1: “Giao Chỉ”.
(26) “Tổng sử” quyển
488, Liệt truyện số 247, “Ngoại quốc’ 4: “Giao Chỉ’, Trịnh Lạp (đời Tống),
Trong “An Nam ký lược” cũng có đoạn ghi tương tự: “Trong thành nơi không có
dân cư, có mấy trăm khu nhà bằng tre trúc dùng làm doanh trại của lính. Cửa
phủ có ghi “Minh Đức”… Binh khí thì có cung, nỏ, mộc bài, súng tre” (dẫn theo
Trương Tú Dân[2]).
(27) Nghiêm Tòng Giản
(đời Minh), “Thù vực châu tư lục”, quyển 6, “An Nam”.
(28) Phan Đỉnh Quê (đời
Thanh), “An Nam kỷ du”.
(29) Lý Tiên Căn
(đời Thanh), “An Nam tạp ký”.
(30) Phan Đỉnh Quê (đời
Thanh), “An Nam kỷ dư”.
(31) Nghiêm Tòng Giản
(đời Minh), “Thù vực châu tư lục”, quyển 6, “An Nam”.
(32) Uông Đại Uyên (đời
Nguyên), “Đảo di chí lược’, phần “Giao Chỉ”.
(33) Lý Tiên Căn (đời
Thanh), “An Nam tạp ký”.
(34) Trịnh Lạp (đời
Tống), “An Nam ký lược’ (dẫn theo Trương Tú Dân [2, tr.59]).
(35) Phan Đỉnh Quê (đời
Thanh): “An Nam kỷ du”.
(36) Nghiêm Tòng Giản
(đời Minh), “Thù vực châu tư lục”.
(37) Uông Đại Uyên (đời
Nguyên), “Đảo di chí lược’, phần “Giao Chỉ”.
(38) Phan Đỉnh Quê (đời
Thanh), “An Nam kỷ du”.
(39) Nghiêm Tòng Giản
(đời Minh), “Thù vực châu tư lục”, quyển 6, “An Nam”.
(40) La Viết Cánh (đời
Minh), “Hàm tân lục’, Nam di chí, quyển 6, “An Nam” (đề tựa năm 1591).
(41) Trương Nhiếp (đời
Minh), “Đông Tây dương khảo, quyển 1 “Giao Chỉ” (bản khắc năm 1617).
(42) Nghiêm Tòng Giản
(đời Minh), “Thù vực châu tư lục”, quyển 6, “An Nam”.
(43) Lý Tiên Căn
(đời Thanh), “An Nam tạp ký”.
(44) Trịnh Lạp (đời Tống),
“An Nam ký lược’, dẫn theo Trương Tú Dân.
(45) Phan Đỉnh
Quê (đời Thanh), “An Nam kỷ du”.
(46) “Minh sử”,
quyển 321, “Liệt truyện” truyện 289, “Ngoại quốc” 2: “An Nam”.
(47) Trịnh Lạp (đời Tống),
“An Nam ký lược” (dẫn theo Trương Tú Dân [2, tr.58].
(48) Dư Tấn (đời
Thanh), “Đại quan đường văn tập”, quyển 2 “Thuộc quốc hiệu thuận thư”.
(53) Trịnh Lạp (đời Tống),
“An Nam ký lược” (dẫn theo Trương Tú Dân [2, tr.58].
(54) “Nguyên sử”, quyển
209, truyện thứ 96 “Liệt truyện”, “Ngoại di” 2: “An Nam”.
(55) Nghiêm Tòng Giản
(đời Minh), “Thù vực châu tư lục”, quyển 5, “An Nam”.
(56) Phan Đỉnh Quê (đời
Thanh), “An Nam kỷ du”.
(49) Lý Tiên Căn (đời
Thanh), “An Nam tạp ký”.
(50) Uông Đại Uyên (đời
Nguyên), “Đảo di chí lược’, phần “Giao Chỉ” 1349.
(51) “Minh sử”, quyển
321, “Liệt truyện” thứ 209, “Ngoại quốc” 2: “An Nam”.
(52) Nghiêm Tòng Giản
(đời Minh), “Thù vực châu tư lục”, quyển 5, “An Nam”.
(53) Trịnh Lạp (đời Tống),
“An Nam ký lược” (dẫn theo Trương Tú Dân [2, tr.58].
(54) “Nguyên sử”, quyển
209, truyện thứ 96 “Liệt truyện”, “Ngoại di” 2: “An Nam”.
(55) Nghiêm Tòng Giản
(đời Minh), “Thù vực châu tư lục”, quyển 5, “An Nam”.
(56) Phan Đỉnh Quê (đời
Thanh), “An Nam kỷ du”.
Nguồn: Tạp
chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội – KHXH&NV số 24 (2008) tr.136-147.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét