25 tháng 2, 2017

QUÁ TRÌNH GIỮ GÌN VÀ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CÁCH MẠNG Ở KIẾN PHONG (1954 – 1959)

TS. Phạm Phúc Vĩnh
Trường Đại học Sài Gòn
Tóm tắt
Bài báo phân tích nét sáng tạo của tỉnh Kiến Phong (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp) trong quá trình gìn giữ và phát triển lực lượng vũ trang trong giai đoạn 1954 – 1959. Cụ thể là đi sâu tìm hiểu về chủ trương lợi dụng danh nghĩa của các giáo phái và lực lượng Bình Xuyên để xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, hỗ trợ có hiệu quả cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng trong điều kiện chủ trương của Trung ương không cho phép sử dụng vũ trang.
Nhờ lực lượng vũ trang được giữ gìn hiệu quả, nên khi có chủ trương cho phép vũ trang của Hội nghị 15, lực lượng vũ trang cách mạng tỉnh Kiến Phong phát triển mạnh mẽ và tiến lên giành thắng lợi quân sự ở Giồng Thị Đam – Gò Quản Cung, mở đầu thời kì tiền Đồng Khởi ở Nam Bộ.
Từ khóa: tỉnh Kiến Phong, tỉnh Đồng Tháp, lực lượng cách mạng, Giồng Thị Đam, Gò Quản Cung.

THE PRESERVATION AND DEVELOPMENT OF THE ARMED FORCES IN KIEN PHONG (1954-1959)
Dr. Pham Phuc Vinh - Saigon University
Abstract: This paper analyzed the creative traits of Kien Phong province (now named Dong Thap province) in the preservation and development of the armed forces in the period 1954 - 1959. In particular, this paper gave an insight on the policy of abusing titular of the sects and the Binh Xuyen forces to build the revolutionary armed forces, give an effective support for the political movement of the masses in the conditions that the central policy did not allow using armed forces. Because the armed forces was preserved effectively, when there was the policy allowing the use of armed forces of Conference 15, the Revolutionary Armed Forces of Kien Phong province flourished and gained military victory in Giong Thi Dam – Go Quan Cung, opening the pre-Dong Khoi period in Southern Vietnam.
Keywords: Kien Phong province, Dong Thap province, the revolutionary forces, Giong Thi Dam, Go Quan Cung.

1. Quá trình giữ gìn lực lượng vũ trang ở Kiến Phong từ 1954 đến 1959
1.1. Tình hình Kiến Phong sau Hiệp định Genève
Theo quy định của Hiệp định Genève, ở khu vực Trung Nam Bộ, lực lượng cách mạng sẽ tập kết tại Cao Lãnh và chuyển ra miền Bắc trong thời hạn 100 ngày[1]. Ngày 19/10/1954, lực lượng cách mạng hoàn tất việc chuyển quân tại Cao Lãnh theo đúng kế hoạch đã thỏa thuận.
Cùng với quá trình rút quân, tháng 10/1954, Trung ương cục đã tiến hành Hội nghị triển khai nhiệm vụ của Đảng ở miền Nam. Hội nghị đã công bố quyết định thành lập Xứ ủy Nam bộ thay cho Trung ương cục, toàn Nam Bộ chia làm ba liên tỉnh: Liên tỉnh ủy miền Đông, Liên tỉnh ủy miền Trung[2] và Liên tỉnh ủy miền Tây. Tại hội nghị, Xứ ủy Nam bộ đã chỉ đạo: “tất cả công tác Đảng đều nhằm động viên, tập hợp quần chúng đấu tranh chính trị. Đồng thời các Đảng bộ phải cảnh giác, sẳn sàng đối phó với khả năng đối phương phá hoại hiệp định, gây chiến tranh trở lại”[3].
Chấp hành sự chỉ đạo của Xứ ủy, tổ chức Đảng ở Kiến Phong được bí mật tổ chức lại để lãnh đạo nhân dân đấu tranh theo phương thức mới: “bằng sức mạnh của quần chúng và pháp lí của Hiệp định Genève, bảo vệ tổ chức Đảng, bảo vệ cán bộ, giành quyền dân sinh, dân chủ, giữ vững thành quả cách mạng”[4].
Ngày 31/10/1954, chính quyền Sài Gòn mở chiến dịch tiếp quản Cao Lãnh. Sau khi tiếp quản Cao Lãnh, quân đội Sài Gòn đã tiến hành nhiều cuộc hành quân càn quét nhằm vào các khu căn cứ cách mạng và những người kháng chiến cũ ở Kiến Phong, tiêu biểu là vụ thảm sát 44 người dân vô tội và các chiến sĩ cách mạng ở Bình Thành (huyện Thanh Bình) ngày 11/11/1954, cho quân đội phá đài liệt sĩ và mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc tại Cao Lãnh, gây nhiều thiệt hại cho lực lượng cách mạng.
Sau khi tuyên bố từ chối hiệp thương tổng tuyển cử và bầu cử Quốc hội riêng, chính quyền Ngô Đình Diệm bắt đầu thực hiện giai đoạn hai của chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” trên khắp miền Nam Việt Nam, trong đó Đồng Tháp Mười là một địa bàn trọng tâm của chiến dịch này.
Cuối năm 1956, chính quyền Sài Gòn thực hiện chương trình cải cách điền địa theo dụ số 57, lập dinh điền ở Đồng Tháp Mười, sửa chữa quốc lộ 30 (An Hữu – Cao Lãnh - Hồng Ngự), đào mới một số kênh như Phước Xuyên, An Long …, đồng thời cho xây dựng tháp mười tầng cao 42m và bố trí một trung đội bảo an chiếm đóng để kiểm soát các căn cứ cách mạng ở vùng Đồng Tháp Mười.
Chỉ trong những năm đầu sau khi Hiệp định được kí kết cho thấy, nếu thực hiện đúng chủ trương đấu tranh chính trị hòa bình của Trung ương Đảng thì sẽ dẫn đến những tổn thất lớn về lực lượng. Việc tái lập, duy trì lực lượng vũ trang để bảo vệ phong trào đấu tranh chính trị là một yêu cầu bức thiết đối với phong trào cách mạng tỉnh Kiến Phong.
1.2. Sáng tạo của tỉnh Kiến Phong trong quá trình giữ gìn lực lượng (1954 - 1956)
Xây dựng lực lượng vũ trang để bảo vệ và hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị trước chính sách khủng bố của chính quyền Sài Gòn là một yêu cầu cấp thiết đối với cách mạng miền Nam sau Hiệp định Genève, nhưng nếu làm vậy thì sẽ trái với chủ trương đấu tranh chính trị hòa bình của Trung ương. Làm thế nào để xây dựng được lực lượng vũ trang trong bối cảnh Trung ương chủ trương chỉ đấu tranh chính trị hòa bình là một bài toán khó đối với những người trực tiếp lãnh đạo cách mạng miền Nam lúc này.
Trong lúc tưởng chừng như không có lối thoát như trên, một tình thế bất ngờ xuất hiện: đầu năm 1955, các lực lượng vũ trang giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo và lực lượng Bình Xuyên đã dạt về vùng Đồng Tháp Mười và nhiều địa phương khác của tỉnh Kiến Phong. Một bộ phận của lực lượng Cao Đài Liên minh không chịu theo Trịnh Minh Thế đầu hàng chính quyền Ngô Đình Diệm đã chạy về bám trụ ở Gãy Cờ Đen - Đồng Tháp Mười. Đặc biệt là lực lượng Hòa Hảo do Trần Văn Soái (Năm Lửa) đứng đầu đã chạy về vùng Đồng Tháp Mười[5]. Đến tháng 9/1955, Năm Lửa đã liên hệ và đề nghị phía cách mạng tư vấn giúp lực lượng Hòa Hảo. Nhân cơ hội này, Đảng bộ tỉnh Kiến Phong đã đưa nhiều cán bộ vào lực lượng vũ trang Hòa Hảo để tranh thủ, thuyết phục, giáo dục và chỉ huy lực lượng này. Đồng thời, tỉnh ủy Kiến Phong cũng chủ trương xây dựng lực lượng du kích xã với tên gọi thôn vệ đội Hòa Hảo giải phóng[6] (lực lượng này mang danh nghĩa Hòa Hảo, nhưng do cách mạng xây dựng và nắm giữ).
Đầu tháng 01/1956, chính quyền Ngô Đình Diệm mở chiến dịch Nguyễn Huệ bình định miền Trung và Tây Nam Bộ mà trọng điểm là Đồng Tháp Mười và U Minh Thượng nhằm càn quét tàn quân của các giáo phái. Năm Lửa không chống lại nổi nên đã đưa lực lượng ra đầu hàng vào ngày 13/2/1956 (tức ngày mùng hai tết Bính Thân). Khi Năm Lửa đầu hàng, các cán bộ cách mạng trong lực lượng Hòa Hảo đã kịp thời tách ra và giữ được một số súng đạn tiếp tục kháng chiến. Đồng thời lực lượng Thôn vệ đội Hòa Hảo giải phóng do cách mạng nắm giữ cũng được đổi tên là “lực lượng Hòa Hảo li khai còn ở lại chống Diệm” cho phù hợp với tình hình mới.
Dưới danh nghĩa của lực lượng vũ trang Hòa Hảo, các chiến sĩ cách mạng đã làm công tác vũ trang tuyên truyền, xây dựng cơ sở và khi cần thiết thì diệt tề, điệp, ác ôn… làm cho các lực lượng này khiếp sợ, không dám khủng bố cách mạng trắng trợn như trước nữa.
Lúc đầu, chủ trương này đã gặp phải sự phản đối của một số lãnh đạo Liên tỉnh ủy do sợ đi không đúng đường lối chỉ đạo của Trung ương. Nhưng do hiệu quả mang lại từ thực tế sáng tạo này trong quá trình đấu tranh rất lớn nên đã thuyết phục được những lãnh đạo có chủ trương thận trọng.
Từ cách làm của Tỉnh ủy Kiến Phong và một số địa phương khác ở trong vùng, Liên tỉnh ủy Trung Nam bộ đã chính thức chỉ đạo cho các tỉnh lợi dụng tình hình quân đội giáo phái ra đầu hàng chính quyền Ngô Đình Diệm, thành lập ngay lực lượng vũ trang để hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị”[7]. Sau đó, Liên tỉnh ủy Trung Nam Bộ cho lập Bộ tư lệnh giáo phái (giả) để chỉ huy các lực lượng vũ trang này ở các tỉnh[8] thuộc Khu 8 – Trung Nam Bộ.
Những thành công trong thực tế của chủ trương trên đã được Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ tháng 12/1956 nâng lên thành chủ trương chung của Nam Bộ; Nghị quyết của Hội nghị Xứ ủy xác định: “Lúc này đấu tranh chính trị đơn thuần là không được, mà đấu tranh vũ trang thì chưa phải. Do đó, cần tích cực xây dựng lực lượng vũ trang tuyên truyền, lập đội vũ trang bí mật, tranh thủ vận động, cải tạo lực lượng giáo phái bị Mĩ - Diệm đánh tan, đứng vào hàng ngũ nhân dân, lợi dụng danh nghĩa giáo phái để diệt ác ôn”[9].
Nhờ có hoạt động vũ trang, chính quyền Sài Gòn không dám đẩy mạnh khủng bố, tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân Kiến Phong phát triển. Chính quyền cách mạng đã vận động nhân dân không tham gia bỏ phiếu “trưng cầu dân ý” ngày 23/10/1955 do chính quyền Ngô Đình Diệm tổ chức với lí do sợ bị “quân đội Hòa Hảo” bắn. Tương tự, lực lượng cách mạng tiếp tục sử dụng những biện pháp này để vận động nhân dân tẩy chay cuộc bầu cử Quốc hội riêng ở miền Nam do chính quyền Ngô Đình Diệm tổ chức ngày 04/3/1956.
Nhờ sử dụng lực lượng vũ trang dưới danh nghĩa giáo phái, tỉnh Kiến Phong đã tạo ra được thế trận kết hợp hình thức đấu tranh chính trị với vũ trang trong đấu tranh chống chính sách độc tài, phát xít của chính quyền Ngô Đình Diệm. Nhờ vậy, trong những năm 1956 – 1957, nhiều hoạt động đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị ở Kiến Phong diễn ra thành công[10]. Phong trào đấu tranh của nông dân chống dụ số 57 của chính quyền Ngô Đình Diệm cũng diễn ra sôi nổi ở nhiều nơi[11].
Cách làm đầy sáng tạo trên của Tỉnh ủy Kiến Phong đã giúp địa phương xây dựng được lực lượng vũ trang làm chỗ dựa cho phong trào đấu tranh chính trị khá hiệu quả. Và trong một chừng mực nhất định, có thể nói, phong trào cách mạng ở Kiến Phong trong giai đoạn này diễn ra dưới hình thức “đấu tranh chính trị có kết hợp vũ trang tự vệ” mà vẫn không vi phạm chủ trương (về hình thức – tg) của Trung ương.
1.3. Quá trình giảm sút và phục hồi lực lượng vũ trang cách mạng (1956 – 1959)
Trong giai đoạn từ tháng 7/1957 đến tháng 9/1958, Đảng bộ tỉnh Kiến Phong chủ trương hạn chế việc xây dựng lực lượng vũ trang và ra lệnh giảm bớt lực lượng vũ trang, không được nổ súng (không chủ động trừ gian, phá tề…), giải thể Ủy ban hành chính giải phóng Hòa Hảo (do cách mạng lập ra)… để đảm bảo nghiêm túc chủ trương đấu tranh chính trị của trung ương[12]. Bộ đội phải phân tán rút sâu vào Đồng Tháp Mười, một số phân tán nhỏ thành từng tổ, từng bán đội tản ra các vùng đông dân để thực hiện “điều lắng”[13].
Chủ trương trên được đưa ra đúng vào lúc chính quyền Sài Gòn tập trung lực lượng tổng lực đánh phá phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ của quần chúng cách mạng (kéo dài từ giữa năm 1957 đến giữa năm 1959)[14], làm cho phong trào cách mạng ở Kiến Phong bị đẩy sâu vào tình thế khó khăn và tổn thất nghiêm trọng[15]. Phong trào đấu tranh vũ trang hỗ trợ cho đấu tranh chính trị vì thế cũng bị giảm sút[16].
Đánh giá về những tác động của chủ trương giảm bớt lực lượng vũ trang, không được chủ động nổ súng trong giai đoạn từ 7/1957 đến 9/1958 đối với phong trào cách mạng ở Kiến Phong, cuốn “Công tác binh vận trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975” viết: “phong trào cách mạng của quần chúng mất thế dựa vào lực lượng võ trang, đã núng thế, tạm lắng dịu, đấu trang lẻ tẻ, có khuynh hướng cải lương, có nguy cơ khó đứng vững[17].
Tháng 9/1958, tỉnh ủy Kiến Phong trở lại thực hiện chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang bí mật để làm chỗ dựa cho đấu tranh chính trị[18], tái lập lực lượng vũ trang và đẩy mạnh diệt ác, phá kiềm để tháo gỡ thế kìm kẹp quần chúng của quân đội Sài Gòn[19]. Đến đầu năm 1959, lực lượng vũ trang tỉnh Kiến Phong được sử dụng tập trung hơn và thường xuyên vũ trang tuyên truyền hỗ trợ cho hoạt động đấu tranh chính trị của quần chúng[20].
Sự phục hồi và hoạt động của lực lượng vũ trang ở Kiến Phong từ cuối năm 1958 đã tạo ra được chỗ dựa vững chắc cho hoạt động đấu tranh chính trị. Đây là nền tảng cho sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng vũ trang ở Kiến Phong khi có chủ trương chính thức phục hồi lực lượng vũ trang cách mạng ở miền Nam của Hội nghị lần thứ 15 Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa II).
2. Chiến thắng Giồng Thị Đam – Gò Quản Cung ở tỉnh Kiến Phong
2.1. Sự phát triển của lực lượng vũ trang ở Kiến Phong sau Hội nghị 15
Tháng 1/1959, Hội nghị lần thứ 15 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa II) đã thống nhất về chủ trương đối với cách mạng miền Nam là đấu tranh chính trị có kết hợp sử dụng vũ trang. Tuy nhiên, Nghị quyết của Hội nghị vẫn chưa được chính thức thông qua[21]. Trong bối cảnh đó, trước khi rời Hà Nội, ông Phạm Văn Xô - đại diện Xứ ủy Nam Bộ tham dự Hội nghị đến chào từ biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh và hỏi Bác thêm về chủ trương đấu tranh vũ trang ở miền Nam, Bác trả lời: “dù sao cũng không thể để cách mạng miền Nam chịu tổn thất hơn nữa. Xứ ủy các chú có phải là Đảng không? Trung ương ở xa, các chú phải tùy tình hình, cân nhắc kĩ lưỡng mà quyết định và chịu trách nhiệm”[22]. Câu nói của Hồ Chủ tịch đã làm lãnh đạo Xứ ủy càng thêm vững tin vào chủ trương vũ trang.
Không chờ đến khi Nghị quyết 15 của Trung ương được chính thức thông qua và phổ biến chính thức, tinh thần cho vũ trang của Hội nghị 15 đã lan truyền đến nhiều cán bộ lãnh đạo cấp cao ở Nam Bộ. Tuy chưa chính thức cho phép nhưng việc phục hồi và phát triển lực lượng vũ trang ở nhiều địa phương của Nam Bộ đã được khởi động. Tại Kiến Phong, các lực lượng vũ trang địa phương được tổ chức lại và phát triển mạnh mẽ và đến tháng 9/1959, Liên tỉnh ủy Trung Nam Bộ đổi phiên hiệu Tiểu đoàn 2 Kiến Phong thành Tiểu đoàn 502, sẳn sàng cho một thời kì đấu tranh mới.
2.2. Diễn biến và kết quả của trận chiến Giồng Thị Đam – Gò Quản Cung
Ngày 25/9/1959, Ban chỉ huy Tiểu đoàn 502 đang đóng quân tại Giồng Thị Đam (Tân Hộ Cơ - Hồng Ngự, nay thuộc huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp), điều đại đội Bảy Phú (Thanh Bình) cùng một bán đội của đại đội Năm Bình chuẩn bị mở đợt hoạt động trên tuyến sông Sở Hạ. Lực lượng gồm có 42 người, trang bị 35 khẩu súng (có 3 trung liên).
Trong thời điểm này, Quân khu 5 của chính quyền Sài Gòn điều 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 42 thuộc Sư đoàn 23 bộ binh ddang hành quân đánh diệt quân giải phóng tại căn cứ Hồng Ngự và bảo vệ công trình kênh đào An Long.
Sáng sớm 26/9/1959, lực lượng cách mạng tại Giồng Thị Đam phát hiện quân đội chủ lực của chính quyền Sài Gòn đang hành quân bằng xuồng cặp theo giồng Giàng. Chỉ huy tiểu đoàn 502 cân nhắc tình hình và quyết định tấn công trong tình trạng so sánh lực lượng nghiêng về phía quân đội Sài Gòn[23].
Chỉ sau 20 phút chiến đấu, lực lượng cách mạng đã đánh chìm 83 xuồng của quân đội Việt Nam cộng hòa, bắt sống 75 người; thu 7 súng trung liên, 39 súng tiểu liên, 49 súng trường tự động, 4 súng phóng lựu, 6 súng ngắn, 7 máy thông tin PRC10, 83 chiếc xuồng và nhiều quân trang, quân dụng khác. Phía cách mạng có một người hi sinh và hai người bị thương.
Qua khai thác tù binh, lực lượng vũ trang cách mạng biết được quân đội Sài Gòn còn có một cánh quân khác là Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn 42 đang theo hướng An Phong lên Hồng Ngự và sẽ đi qua vùng này. Toàn bộ lực lượng cách mạng nhanh chóng tiến về phía Gò Quản Cung cách Giồng Thị Đam khoảng 3km bám trụ ở đây và chuẩn bị tác chiến.
Khoảng 14 giờ ngày 26/9/1959, Tiểu đoàn 2 của quân đội Sài Gòn từ An Phong đi về hướng Gò Quản Cung. Với súng đạn vừa thu được, lực lượng cách mạng đã tổ chức phục kích, bắt thêm 30 tù binh, thu 20 súng, 2 máy vô tuyến điện và chỉ có 17 xuồng của quân đội Sài Gòn chạy thoát[24]. Phía cách mạng có một người bị thương.
Đây là chiến thắng lớn đầu tiên của Tiểu đoàn 502 và là trận đánh lớn nhất tại Kiến Phong nói riêng và trên toàn Nam Bộ nói chung kể từ sau Hiệp định Genève. Nó đã thật sự tạo ra một bước ngoặt lớn đối với hoạt động vũ trang ở Kiến Phong nói riêng, Đồng bằng Sông Cửu Long và cả Nam Bộ nói chung.
Chiến thắng Giồng Thị Đam – Gò Quản Cung đã làm chấn động chính quyền Sài Gòn; tổng thống Ngô Đình Diệm đã chỉ thị cho thành lập ngay Hội đồng quân kỉ và giao cho đại tướng Lê Văn Tỵ - Tổng tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn trực tiếp chỉ đạo tiến hành mổ xẻ nguyên nhân thất bại của trận đánh. Báo cáo tình hình Quân khu 5[25] tháng 12/1959 của Bộ tổng tham mưu Quân lực Việt Nam cộng hòa đánh giá sự phát triển của hoạt động đấu tranh vũ trang cách mạng cuối năm 1959 như sau: “tình hình đặc biệt nghiêm trọng bởi ngoài các vụ khủng bố, ám sát thường xuyên, hoạt động vũ trang của Việt Cộng gia tăng. Rõ ràng Việt Cộng tiếp tục theo đuổi chủ trương tập trung và vẫn cố gắng tạo thế chủ động với các hoạt động táo bạo như chấp nhận giao tranh… nhất là ở các tỉnh Kiến Phong, Kiến Tường, An Xuyên…”[26].
Chiến thắng Giồng Thị Đam – Gò Quản Cung phù hợp với chủ trương mới của Trung ương. Vì vậy, tháng 10/1959, Thường vụ Khu ủy Khu 8 đã thông báo trước cho riêng Tỉnh ủy Kiến Phong tinh thần chỉ đạo “trên cho làm vũ trang” của Hội nghị trung ương lần thứ 15. Những kinh nghiệm xây dựng lực lượng vũ trang của tỉnh Kiến Phong đã được phổ biến tại Hội nghị triển khai Nghị quyết 15 của Liên tỉnh ủy Trung Nam Bộ vào tháng 12/1959 và đồng thời Liên Tỉnh ủy đã giao cho tỉnh Kiến Phong nhiệm vụ hỗ trợ các tỉnh An Giang, Kiến Tường đang có phong trào vũ trang yếu.
3. Kết luận
Trong giai đoạn từ 1954 đến 1959, Kiến Phong đã lợi dụng danh nghĩa của các giáo phái li khai chống chính quyền Ngô Đình Diệm để xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang làm chỗ dựa cho phong trào đấu tranh chính trị. Sự sáng tạo này đã giúp Đảng bộ tỉnh Kiến Phong lãnh đạo nhân dân “đấu tranh chính trị kết hợp có vũ trang tự vệ” trong hoàn cảnh Trung ương không cho phép vũ trang.
Chủ trương lợi dụng danh nghĩa các giáo phái để xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, làm chỗ dựa cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng trong hoàn cảnh Trung ương không cho phép vũ trang ở Kiến Phong và nhiều địa phương khác ở Nam Bộ là một điểm rất nổi bật, thể hiện tính năng động, sáng tạo trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Tỉnh ủy Kiến Phong nói riêng, Liên tỉnh ủy Trung Nam bộ và Xứ ủy Nam Bộ nói chung trong giai đoạn 1954 – 1959.
Nhờ có chủ trương sáng tạo và đúng đắn trên, tỉnh Kiến Phong trở thành địa phương đi đầu, điển hình của Khu 8 và Nam Bộ trong việc giữ gìn và phát triển lực lượng vũ trang trong giai đoạn 1954 - 1959. Nhờ vậy, sau Nghị quyết 15, lực lượng vũ trang Kiến Phong phát triển mạnh mẽ và lập nên được kì tích  chiến thắng Giồng Thị Đam - Gò Quản Cung, tạo thế và lực mới cho lực lượng cách mạng trong toàn Khu Trung Nam Bộ, đưa phong trào cách mạng ở đây bước sang giai đoạn chuẩn bị sẳn sàng tiến lên “Đồng Khởi” - thời kì “tiền Đồng Khởi”, góp phần chuẩn bị trực tiếp cho phong trào “Đồng Khởi” mạnh mẽ diễn ra trong toàn khu Trung Nam Bộ năm 1960.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp (1997), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp, Nxb Đồng Tháp, Đồng Tháp.
[2]. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Tháp (1998), Những trận đánh của lực lượng vũ trang tỉnh Đồng Tháp - Kiến Phong đánh giặc, Nxb QDND, Hà Nội.
[3]. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Tháp (1990), Ba mươi năm kháng chiến của quân dân Đồng Tháp (1945 - 1975), Đồng Tháp.
[4]. Đảng bộ huyện Cao Lãnh (2005), Lịch sử truyền thống cách mạng huyện Cao Lãnh 1954 – 1975, Ban tuyên giáo huyện Cao Lãnh, Đồng Tháp.
[5]. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện đảng toàn tập, Nxb CTQG, HN, 2000. Tập 17, 18, 19, 20, 21.
[6]. Đảng ủy - Bộ tư lệnh quân khu 9 (1998), Quân khu 8 ba mươi năm kháng chiến (1954 - 1975), Nxb QDND, Hà Nội.
[7]. Lê Hồng Lĩnh (2005), Cuộc đồng khởi kì diệu ở miền Nam Việt Nam (1959 - 1960), Nxb Đà Nẵng.
[8]. Cao Văn Lượng - Phạm Quang Toàn - Quỳnh Cư (1981), Tìm hiểu phong trào Đồng Khởi ở miền Nam Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
[9]. GS.TS. Hoàng Phương (Chủ biên) (2005), Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 11, Nxb CTQG, Hà Nội.
[10]. Tỉnh ủy Đồng Tháp (2005), Công tác binh vận trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước ở tỉnh Đồng Tháp, Ban tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Tháp, Đồng Tháp.
[11]. Viện LSQS Việt Nam (1996), Lịch sử kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 – 1975, tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội.
  Nguồn: Tạp chí Lịch sử Quân sự, Số tháng 01/2017.



[1] Ở khu vực Tây Nam bộ, lực lượng cách mạng tập kết tại Cà Mau và di chuyển ra miền Bắc trong vòng 200 ngày; ở Đông Nam bộ, địa điểm tập kết là Hàm Tân và Xuyên Mộc với thời hạn 80 ngày.
[2] Liên tỉnh ủy miền Trung bao gồm các tỉnh: Long An, Mĩ Tho, Gò Công, Bến Tre, Kiến Tường, Kiến Phong, An Giang.
[3] Đảng ủy - Bộ tư lệnh quân khu 9 (1998), Quân khu 8 ba mươi năm kháng chiến (1954 - 1975), Nxb QDND, Hà Nội, tr. 289.
[4] Đảng ủy - Bộ tư lệnh quân khu 9 (1998), Sách đã dẫn, tr. 290.
[5] Nay thuộc các huyện Cao Lãnh, Tháp Mười, Hồng Ngự, Thanh Bình của tỉnh Đồng Tháp.
[6] Tỉnh ủy Đồng Tháp (2005), Công tác binh vận trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước ở tỉnh Đồng Tháp, Ban tuyên giáo tỉnh ủy Đồng Tháp, Đồng Tháp, tr. 16.
[7] Đảng bộ huyện Cao Lãnh (2005), Lịch sử truyền thống cách mạng huyện Cao Lãnh 1954 – 1975, Ban tuyên giáo huyện Cao Lãnh, Đồng Tháp, tr. 35.
[8] Đảng ủy - Bộ tư lệnh quân khu 9 (1998), Sách đã dẫn, tr. 304.
[9] Đảng ủy - Bộ tư lệnh quân khu 9 (1998), Sách đã dẫn, tr. 308.
[10] Tiêu biểu là trận phục kích của lực lượng vũ trang cách mạng tại Me Nước xã Tân Thạnh huyện Thanh Bình vào tháng 8/1956 và cuộc đấu tranh của 6000 đồng bào ở huyện Mĩ An tại dinh quận trưởng vào tháng 01/1957 đòi thả 100 thanh niên bị chính quyền Sài Gòn bắt lính và buộc chúng phải thả hết những thanh niên này về nhà.
[11] Phong trào diễn ra mạnh mẽ ở các xã Bình Thạnh, Phong Mĩ thuộc huyện Cao Lãnh, Bình Thành, Tân Phú, Tân Thạnh thuộc huyện Thanh Bình.
[12] Từ tháng 7/1957 đến tháng 9/1958, Nguyễn Kim Nha và Nguyễn Văn Thử - Tám Thử (Sáu Sa) lần lượt làm Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Kiến Phong. Trong giai đoạn này, tỉnh ủy Kiến Phong thực hiện chủ trương chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương của Trung ương về đấu tranh chính trị, do đó hoạt động xây dựng lực lượng vũ trang cũng không được chú trọng đúng mức.
[13] Bí mật điều cán bộ đảng viên ở vùng này đến vùng khác để tránh địch theo dõi và phát hiện.
[14] Đặc biệt nghiêm là trong tháng 9/1958, lợi dụng mùa nước nổi, quân đội Sài Gòn mở nhiều cuộc càn quét vào vùng Đồng Tháp Mười gây cho lực lượng cách mạng nhiều tổn thất, Bí thư tỉnh ủy Kiến Phong - Nguyễn Văn Thử bị bắt trong đợt này.
[15] Tiêu biểu như vụ đột kích bất ngờ của quân đội Sài Gòn vào gò Cà Dâm ngày 31/10/1957, hầu hết Ban chỉ huy tiểu đoàn II – Bình Xuyên cùng một số cán bộ bị bắt; hàng chục tù chính trị ở Bắc Cao Lãnh và cầu sắt Vàm Xáng xã Phong Mĩ (Cao Lãnh) bị thủ tiêu, đặc biệt là vụ thủ tiêu 52 tù chính trị tại xã Tịnh Thới (Cao Lãnh) chỉ trong một đêm.
[16] Trong toàn tỉnh chỉ còn một số vụ đấu tranh nhỏ như trong tháng 8/1957, lực lượng cách mạng ở Kiến Phong đã kết hợp nội ứng lấy đồn Cây Điệp xã Tân Thuận Đông[Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp (1997), Sách đã dẫn, tr. 44].
[17] Tỉnh ủy Đồng Tháp (2005), Công tác binh vận trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước ở tỉnh Đồng Tháp, Ban tuyên giáo tỉnh ủy Đồng Tháp, Đồng Tháp, tr. 35.
[18] Tháng 9/1958, Liên tỉnh ủy Trung Nam Bộ điều động ông Nguyễn Văn Phối - Thường vụ Liên tỉnh ủy trở lại làm Bí thư tỉnh ủy Kiến Phong, từ đó chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang bí mật để làm chỗ dựa cho đấu tranh chính trị được phục hồi.
[19] Tiêu biểu cho các hoạt động này là vụ tập kích tiêu diệt Trưởng đồn Cây Me (Tân Thành) và vụ đột nhập quận lị Mĩ An tiêu diệt cảnh sát trưởng xã Mĩ Hội…
[20] Nhân sự kiện chính quyền Sài Gòn đầu độc tù chính trị tại nhà tù Phú Lợi (2/1959), thực hiện chủ trương của Trung ương và Liên tỉnh ủy, các địa phương trong tỉnh đã phát động phong trào đấu tranh tố cáo tội ác thảm sát tù nhân chính trị của Mĩ - Diệm. Hàng chục ngàn truyền đơn, khẩu hiệu đã được rải và dán khắp nơi. Cùng với hoạt động đấu tranh chính trị của quần chúng, lực lượng vũ trang ở Kiến Phong đã tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền ở các khu dinh điền, vạch trần tội ác của kẻ thù, kêu gọi nhân dân đấu tranh đòi trở về quê cũ làm ăn.
[21] Sau Hội nghị tháng 1/1959, Nghị quyết của Hội nghị vẫn chưa được thông qua (đến tháng 5/1959 Hội nghị lần thứ 15 họp lần 2, văn bản nghị quyết chính thức của Hội nghị mới được thông qua). Song do nhiều lí do khác nhau mà việc chính thức phổ biến tinh thần của Hội nghị 15 xuống các địa phương một cách rộng rãi phải chờ đến tháng 12/1959 mới được tiến hành.
[22] Lê Hồng Lĩnh (2005), Cuộc đồng khởi kì diệu ở miền Nam Việt Nam (1959 - 1960), Nxb Đà Nẵng, Tp. Đà Nẵng, tr. 268.
[23] Ban đầu trinh sát cách mạng phát hiện chỉ có 9 xuồng của quân đội Sàu Gòn đi về phía Giồng Thị Đam, nhưng sau đó phát hiện tiếp cách đó khoảng 300 mét còn thêm khoảng hơn 70 chiếc nữa. Ngược lại, lực lượng của cách mạng có một đại đội - 42 tay súng với 13 chiếc xuồng. Tuy nhiên, phía cách mạng có ưu thế hơn ở chỗ bộ đội thạo nghề sông nước, dùng sào để chống xuồng rất nhanh còn quân đội Sài Gòn không có kinh nghiệm đi xuồng trên vùng nước cạn, dùng dầm để bơi xuồng nên không thể “vừa bắn, vừa bơi” được.
[24] Theo Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp (trang 65), quân đội Sài Gòn chỉ còn lại 3 thuyền chạy thoát.
[25] Theo cách phân vùng lãnh thổ quân sự của chính quyền Sài Gòn, Quân khu 5 tương ứng với vùng đồng bằng sông Cửu Long.
[26] Hoàng Phương (Chủ biên) (2005), Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 11, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr. 108.

4 tháng 12, 2016

BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ VỚI TRUNG QUỐC THEO ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (1986 - 1991)

TS. Phạm Phúc Vĩnh(*) TÓM TẮT Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng, từ 1986 đến 1989, Việt Nam đã nhiều lần chủ động đề nghị Trung Quốc nối lại đàm phán để bình thường hóa quan hệ hai nước và chủ động giảm căng thẳng trong quan hệ với Trung Quốc. Tuy nhiên, chính sách của Trung Quốc lúc này là chưa muốn bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Đến năm 1989, tình hình thế giới có nhiều biến đổi, sự căng thẳng trong quan hệ Việt – Trung không còn phù hợp với xu thế hòa bình và hợp tác trong quan hệ quốc tế và khu vực. Trung Quốc đã nối lại đàm phán với Việt Nam và đến tháng 11/1991, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc đã được bình thường hóa. Từ khóa: Việt Nam, Trung Quốc, bình thường hóa, đổi mới, đối ngoại. NORMALIZE RELATION WITH CHINA UNDER THE REFORM POLICY FOREIGN OF THE COMMUNIST PARTY OF VIETNAM (1986 - 1991) ABSTRACT Implementing the reform policy of the Communist Party of Vietnam, from 1986 to 1989, Vietnam has repeatedly suggested connecting negotiation with China to the normalization of relations between the two countries and actively reduce tensions in relations with China. However, at that time, China's policy was not want to normalization relations with Vietnam. By 1989, the situation of world has many variables, the tensions in the relations Vietnam - China is not consistent with the trend of peace and cooperation in international relations and the region. China has connected negotiation with Vietnam and to November 1991, the Sino-Vietnamese relation was normalization. Keywords: Vietnam, China, normalization, reform, foreign affairs. 1. Chủ trương bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc của Đảng Cộng sản (ĐCS) Việt Nam Đến giữa thập niên 80 của thế kỉ XX, cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội của Việt Nam đã trở nên nghiêm trọng, chỗ dựa quốc tế - ngoại lực quan trọng nhất của Việt Nam lúc này là Liên Xô cũng đang khủng hoảng đã làm cho Việt Nam ngày càng khó khăn hơn. Vấn đề đặt ra lúc này là cùng với việc đổi mới các chính sách đối nội, Việt Nam phải phá được thế bị bao vây, cô lập về đối ngoại, mở rộng quan hệ quốc tế để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng. Từ thực tế trên, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V của ĐCS Việt Nam (tháng 3/1982) đã có những thay đổi trong chính sách đối ngoại. Văn kiện Đại hội xác định: “Nhân dân Việt Nam chủ trương thiết lập những quan hệ láng giềng tốt với các nước ASEAN, luôn luôn sẵn sàng phối hợp, cố gắng để xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hoà bình và ổn định”[3; tr. 153]. Đối với các nước khác thì sẵn sàng “thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường về mặt nhà nước về kinh tế, văn hoá, khoa học kĩ thuật với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị xã hội, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền bình đẳng cùng có lợi”[3; tr. 155]. Những tuyên bố về đường lối đối ngoại mới của Việt Nam năm 1982 đã không được các nước ASEAN và phương Tây ủng hộ. Nguyên nhân của tình trạng đó không nằm ngoài việc quân tình nguyện Việt Nam vẫn còn trên lãnh thổ Campuchia. Việc giải quyết “vấn đề Campuchia” chính là “chìa khoá” để Việt Nam mở cánh cửa giao lưu tiếp xúc với bên ngoài, phá thế bị cô lập. Tuy nhiên, việc giải quyết “vấn đề Campuchia” lại liên quan đến nhiều nước khác nhau, trong đó Trung Quốc có một vị trí rất quan trọng. Chính vì vậy, Việt Nam không thể không cải thiện quan hệ với Trung Quốc. Để mở đường cho việc giải quyết “vấn đề Campuchia”, tiến tới mở rộng quan hệ quốc tế, từ 1982 đến 1985, Việt Nam liên tiếp đưa ra những tuyên bố và hành động nhằm tìm cách giảm căng thẳng, tìm cách nối lại đàm phán, khôi phục quan hệ với Trung Quốc: tháng 7/1982, thông qua Hội nghị Ngoại trưởng ba nước Đông Dương, Việt Nam đã đưa ra tuyên bố rằng: “mong muốn có quan hệ hoà bình hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc trong cùng tồn tại hoà bình và nối lại đàm phán Trung - Việt”[10, tr. 202]. Ngày 17/7/1982, Việt Nam đã chủ động rút một phần quân tình nguyện ở Campuchia về nước và tuyên bố sẽ tiếp tục rút như vậy hàng năm. Trung Quốc chỉ đáp lại các đề nghị của Việt Nam bằng tuyên bố “Trung Quốc yêu cầu Việt Nam rút ngay quân khỏi Campuchia, không kéo đến 1990”[10, tr. 204]. Mặc dù vậy, Việt Nam vẫn tiếp tục để ngỏ khả năng đàm phán vô điều kiện với Trung Quốc và tại Hội nghị Ngoại trưởng ba nước Đông Dương ngày 08/6/1986, Việt Nam tiếp tục tuyên bố “…sẵn sàng đàm phán với Trung Quốc ở bất cứ đâu và ở bất cứ cấp nào”[10, tr. 204] và nhờ Liên Xô chuyển cho phía Trung Quốc đề nghị của Việt Nam về việc nối lại đàm phán Trung - Việt. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của ĐCS Việt Nam (diễn ra từ 05/12/1986 đến 18/12/1986) xác định: “Chính phủ và nhân dân Việt Nam, trước sau như một, quý trọng và nhất định làm hết sức mình để khôi phục tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước, và đã đưa ra nhiều đề nghị nhằm sớm bình thường hoá quan hệ giữa nước ta và Cộng hòa nhân dân (CHND) Trung Hoa”, và “Một lần nữa, chúng ta chính thức tuyên bố rằng: Việt Nam sẵn sàng đàm phán với Trung Quốc bất cứ lúc nào, bất cứ cấp nào và bất cứ ở đâu, nhằm bình thường hoá quan hệ giữa hai nước vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới” ”[4, tr. 107]. 2. Những nỗ lực nối lại đàm phán của Việt Nam trong giai đoạn 1986 - 1989 Thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng, Việt Nam tiếp tục thực hiện rút quân khỏi Campuchia và hàng loạt hành động trực tiếp thể hiện thái độ hoà hoãn, giảm căng thẳng và mong muốn bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc . Bất chấp những đề nghị và hành động có thiện chí của Việt Nam, từ năm 1986 đến giữa năm 1988, Trung Quốc vẫn tỏ thái độ bất hợp tác, tiếp tục đưa ra điều kiện đòi Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia hoàn toàn và đồng thời đẩy mạnh các hoạt động tranh chấp trên biển Đông . Thái độ trên của Trung Quốc đã làm cho những nỗ lực ngoại giao của Việt Nam trở nên vô nghĩa. Trong khi Trung Quốc không đáp lại những thiện chí của Việt Nam trong việc giải quyết “vấn đề Campuchia”, thì ngược lại các nước ASEAN và cộng đồng quốc tế đã đón nhận một cách tích cực. Năm 1987 là năm chứng kiến những thay đổi có tính bước ngoặt trong lập trường của ASEAN đối với Việt Nam về “vấn đề Campuchia”. Ngày 29/7/1987, nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (BNG) Indonesia, hai bên đã ra thông cáo chung, đánh dấu sự kết thúc của thời kì đối đầu giữa Việt Nam và ASEAN xung quanh “vấn đề Campuchia” và mở ra thời kì của những cuộc gặp gỡ trực tiếp giữa Hunsen và Sihanouk. Những thuận lợi này đã mở ra cho Việt Nam một hướng mới trong việc giải quyết “vấn đề Campuchia”: nếu chưa nối lại được đàm phán với Trung Quốc, thì Việt Nam có thể chuyển sang hợp tác với các nước ASEAN và cộng đồng quốc tế để tìm giải pháp cho “vấn đề Campuchia”. Nghị quyết 13 “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới” ngày 25/5/1988 của Bộ chính trị đã xác định: “Vấn đề Campuchia phải được giải quyết với Trung Quốc, nhưng cho đến nay, Trung Quốc vẫn chưa muốn trực tiếp giải quyết với ta về “vấn đề Campuchia”. Vì vậy, ta cần tiếp tục kiên trì mở ra nhiều hướng khác (Hunsen – Sihanouk, Việt Nam – Indonesia, Việt Nam – Thái Lan, ASEAN – Đông Dương, Việt Nam – Mĩ)… để thúc đẩy và kéo Trung Quốc vào giải quyết. Dù giải quyết trực tiếp với Trung Quốc hay với các đối tác khác, thì việc giải quyết vấn đề Campuchia” cũng phục vụ cho mục tiêu bình thường hóa với Trung Quốc, không nhằm chống lại Trung Quốc”[1, tr. 15]. Chủ trương của Nghị quyết 13 đã được các nước ASEAN đón nhận. Trong cuộc họp hàng năm của ASEAN diễn ra từ ngày 03/7/1988 đến ngày 05/7/1988 tại Bangkok (Thái Lan), các đại biểu đã bày tỏ niềm tin tưởng vững chắc rằng Việt Nam đã từ bỏ các mục tiêu quân sự của mình ở Campuchia và đang hướng toàn bộ nỗ lực vào giải pháp ngoại giao. Nếu như trước đó, ASEAN và cộng đồng quốc tế cho rằng Việt Nam là mối đe dọa đối với hòa bình và an ninh khu vực, thì giờ đây họ đã nhận ra được rằng, mối đe dọa đó chính là Khmer đỏ, là những hành động mà Trung Quốc đang tiến hành trên biển Đông chứ không phải là Việt Nam. Nhằm giải quyết viễn ảnh Khmer đỏ có thể giành được thế thượng phong quân sự sau khi quân Việt Nam rút toàn bộ, “ASEAN với sự ủng hộ của Mĩ đã nhấn mạnh rằng Trung Quốc nhất thiết phải có mặt trong việc đề ra các bảo đảm quốc tế cho những thỏa thuận đạt được giữa các nước trong vùng quanh “vấn đề Campuchia”. Đồng thời cũng cần thành lập một lực lượng quốc tế gìn giữ hòa bình đông đảo ở nước này” ”[9, tr. 61]. Chính trên tình thần của lập trường này, tại Hội nghị JIM-1 (Jakarta Informal Meeting) từ 25 đến 27/7/1988, các nước ASEAN đã đưa ra đề nghị giải giáp tất cả các phe Khmer đang xung đột ở Campuchia và sự cần thiết phải có một lực lượng vũ trang quốc tế ở nước này để thực hiện quyết định vừa kể. Đề nghị này phản ánh rõ ràng ý đồ của ASEAN là không muốn để bên nào chiếm được thế thượng phong ở Campuchia sau khi quân đội Việt Nam rút đi và trong lúc chờ tổng tuyển cử. Trong bầu không khí ngày càng trở nên hòa dịu của quan hệ Việt Nam – ASEAN, tháng 8/1988, Thủ tướng Thái Lan Chatichai Choonhavan đã tuyên bố rằng cần xem các nước Đông Dương không phải như là những chiến trường mà là những thị trường có thể trong tương lai. Sau đó, ngày 08/8/1988, Thủ tướng Thái Lan đã tuyên bố rằng Chính phủ sẽ khuyến khích các nhà doanh thương Thái Lan tăng các hoạt động thương mại với Lào và Việt Nam mà không cần xem xét đến việc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Như vậy, quan hệ giữa Việt Nam với các nước cứng rắn nhất trong ASEAN đã được cải thiện. Sự hợp tác giữa Việt Nam với ASEAN đã mở ra một hướng giải quyết mới cho “vấn đề Campuchia” mà không phải phụ thuộc quá nhiều vào việc Trung Quốc có chấp nhận đàm phán với Việt Nam hay không. Như vậy, đến cuối năm 1988, quan hệ Xô – Mĩ, Xô - Trung bước sang thời kì hòa dịu, quan hệ giữa Việt Nam với các nước thành viên ASEAN đã chuyển từ đối đầu sang đối thoại và hợp tác, “vấn đề Campuchia” từng bước được quốc tế hóa, việc tiếp tục trì hoãn việc nối lại đàm phán với Việt Nam để giải quyết “vấn đề Campuchia” và bình thường hóa quan hệ Việt – Trung không còn phù hợp với tình hình quan hệ quốc tế và lợi ích của Trung Quốc nữa. Ngày 01/7/1988, phía Trung Quốc phát biểu một tuyên bố đề xuất chủ trương bốn điểm giải quyết chính trị vấn đề Campuchia, thể hiện rõ lập trường của Trung Quốc: “nhanh chóng giải quyết vấn đề Việt Nam rút quân; sau khi Việt Nam rút quân, Campuchia thành lập chính phủ liên hiệp lâm thời bốn bên do hoàng thân Sihanouk đứng đầu; sau khi thành lập chính phủ lâm thời sẽ tiến hành tự do bầu cử ở Campuchia; tiến hành giám sát quốc tế có hiệu quả đối với tiến trình nói trên” ”[11]. Trước những thuận lợi trên, ngày 15/12/1988, Việt Nam đã chính thức đề nghị Trung Quốc tổ chức cuộc gặp cấp Bộ trưởng BNG để bàn về bình thường hóa quan hệ hai nước. Đáp lại lời đề nghị của Việt Nam, ngày 24/12/1988, BNG Trung Quốc đã thông báo mời một Thứ trưởng ngoại giao của Việt Nam đi Bắc Kinh vào giữa tháng 01/1989 để trao đổi với Trung Quốc về “vấn đề Campuchia” và bình thường hoá quan hệ Việt – Trung, chuẩn bị cho cuộc gặp Bộ trưởng BNG hai nước. Sau 10 năm đối đầu gay gắt, trong đó có 8 năm nhất định từ chối đàm phán, cuối cùng Trung Quốc đã chấp nhận đối thoại với Việt Nam để giải quyết “vấn đề Campuchia” và bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Đây là sự kiện mở đầu cho tiến trình đàm phán để bình thường hóa quan hệ Việt – Trung. 3. Quá trình đàm phán và tiến tới bình thường hóa quan hệ Việt - Trung Mặc dù Trung Quốc đã chấp nhận nối lại đàm phán với Việt Nam, nhưng khi tiến hành đàm phán, điều kiện mới mà Trung Quốc đưa ra để đổi lấy việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước không chỉ là rút quân khỏi Campuchia mà Việt Nam còn phải ủng hộ lập trường của Trung Quốc trong việc giải quyết vấn đề này. Tuy nhiên, lập trường của Việt Nam là vấn đề nội bộ Campuchia phải do các bên Campuchia giải quyết. Quá trình đàm phán vừa được mở ra lại rơi vào tình trạng bế tắc. Cuối cùng, hai bên đã đi đến thống nhất tiếp tục đàm phán cấp Thứ trưởng vòng hai và Trung Quốc cũng cho Việt Nam biết rằng: “nếu cuộc gặp vòng hai có kết quả và “vấn đề Campuchia” có tiến triển thì Trung Quốc mới khẳng định việc tổ chức cuộc gặp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của hai nước”[15, tr. 73]. Tuy Trung Quốc muốn tiếp tục trì hoãn quá trình bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, nhưng từ giữa năm 1989 trở đi, tình hình thế giới, khu vực và Trung Quốc có nhiều biến động to lớn, tạo ra những động lực mạnh mẽ thúc đẩy Trung Quốc sớm đi đến bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Thứ nhất, “vấn đề Campuchia” từng bước được giải quyết: sau những thỏa thuận đạt được ở Hội nghị JIM-1, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh rút quân khỏi Campuchia nhằm thúc đẩy xu thế đối thoại và tiến đến quốc tế hóa “vấn đề Campuchia” để tranh thủ các nước ASEAN và cộng đồng quốc tế, kiềm chế những đòi hỏi của Trung Quốc. Tại Hội nghị JIM-2 (02/1989), các nước ASEAN đề nghị giải giáp tất cả lực lượng các bên Campuchia xung đột, để thay vào đó là lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hiệp quốc (LHQ) và đã nhận được sự ủng hộ của Mĩ, Trung Quốc, Liên hiệp quốc và cả Liên Xô, đồng thời phù hợp với chủ trương của Việt Nam và được các bên Campuchia đồng thuận. Những thỏa thuận về giải pháp chính trị cho “vấn đề Campuchia” đạt được trong Hội nghị JIM-2 đã cho phép Việt Nam quyết định dứt khoát hơn trong việc rút quân khỏi Campuchia. Tháng 3/1989, Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành (BCH) Trung ương ĐCS Việt Nam (khóa VI) đã thể hiện quyết tâm: “góp phần tích cực giải quyết vấn đề Campuchia bằng chính trị, đồng thời chuẩn bị tốt việc rút hết quân sớm trong trường hợp chưa có giải pháp về Campuchia”[5, tr. 40]; ngày 05/4/1989, Việt Nam tuyên bố: “Việt Nam rút hết quân đội của mình về nước trước tháng 9/1989, dù có giải pháp hay không”[14]. Thực hiện chủ trương trên, Việt Nam đã tham gia tích cực trong Hội nghị quốc tế về “vấn đề Campuchia” tại Paris (vòng 1: từ 30/7 đến 01/8, vòng 2: từ 28/8 đến 30/8/1989). Tuy nhiên, Hội nghị kết thúc mà các bên vẫn chưa đưa ra được một giải pháp cuối cùng cho vấn đề Campuchia. Thực hiện đúng cam kết, từ ngày 21 đến 26/9/1989, Việt Nam đã rút hết quân tình nguyện còn lại ở Campuchia cùng toàn bộ vũ khí và phương tiện chiến tranh dưới sự quan sát của cộng đồng quốc tế. Ngày 23/10/1991, Hiệp định Paris về Campuchia được kí kết, “vấn đề Campuchia” –vật cản lớn nhất của quá trình bình thường hóa quan hệ Việt – Trung do Trung Quốc đặt ra đã được tháo gỡ. Thứ hai, xu thế hòa bình, hữu nghị trong quan hệ quốc tế và khu vực: tháng 12/1989, lãnh đạo Xô – Mĩ chính thức tuyên bố chấm dứt tình trạng đối đầu giữa hai nước, sự ngờ vực của các nước Đông Nam Á đối với Việt Nam cũng tan biến khi Việt Nam đã rút quân khỏi Campuchia (9/1989), quan hệ giữa Việt Nam với các nước ASEAN và các nước khác cũng dần hồi phục. Liên minh Trung – Mĩ, Trung – ASEAN chống lại Việt Nam và Liên Xô vì thế không còn lí do để tồn tại. Chính sách kéo dài đàm phán, trì hoãn việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam làm cho Trung Quốc càng bị đẩy sâu vào thế bị cô lập. Trung Quốc buộc phải thay đổi chính sách đối ngoại nói chung và chính sách đối với các quốc gia láng giềng Đông Nam Á nói riêng, trong đó có Việt Nam. Thứ ba, những thay đổi trong chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc: sau sự kiện Thiên An Môn (04/6/1989), Trung Quốc bị các nước phương Tây thi hành chính sách cấm vận. Trung Quốc bị đẩy vào thế bị bao vây, cô lập, đe dọa trực tiếp đến quá trình thực hiện mục tiêu “bốn hiện đại hóa” của nước này. Để tìm cách thoát khỏi tình trạng bị bao vây, cô lập, Trung Quốc đã thực hiện chủ trương tăng cường quan hệ với các nước láng giềng Đông Nam Á. Trong lúc “vấn đề Campuchia” đã tìm được giải pháp chính trị, Việt Nam trở thành một nhân tố tích cực trong việc xây dựng một Đông Nam Á hoà bình và ổn định, thì Trung Quốc lại tăng cường xung đột, gây căng thẳng ở biển Đông, trì hoãn bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Những lo ngại của các nước Đông Nam Á về sự bất ổn trong khu vực và nguy cơ bành trướng từ Trung Quốc như đã từng diễn ra trong quá khứ đã làm cho chủ trương tăng cường quan hệ với các nước láng giềng Đông Nam Á gặp phải những trở ngại lớn. Trong hoàn cảnh đó, Trung Quốc buộc phải điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng cải thiện và thắt chặt quan hệ với các nước láng giềng, đặc biệt là Đông Nam Á để từng bước đưa đất nước thoát khỏi thế bị cô lập, tiến tới giải tỏa sự bế tắc trong quan hệ với Mĩ và phương Tây. Tháng 8/1990, Thủ tướng Lý Bằng đã thực hiện chuyến thăm đến các nước trong khối ASEAN. Nhằm trấn an những lo ngại của các nước này, Ông Lí Bằng đã tuyên bố rằng Trung Quốc sẽ sẵn sàng thương lượng và hợp tác về vấn đề Nam Sa (Trường Sa - TG) và sẽ đàm phán để bình thường hóa quan hệ với Việt Nam nhằm tạo môi trường hòa bình, ổn định cho khu vực. Thứ tư, sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Đông Âu và Liên Xô: trong những năm từ 1989 đến 1991, các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô rơi vào khủng hoảng và từng bước sụp đổ. Trung Quốc trở thành nước XHCN lớn nhất trong số các nước còn lại. Mặc dù đang theo đuổi mục tiêu tranh thủ Mĩ và các nước tư bản phương Tây, nhưng Trung Quốc cũng phải đối mặt với cuộc đấu tranh trong lĩnh vực ý thức hệ tư tưởng. Thực tế này đòi hỏi Trung Quốc và các nước XHCN còn lại khác phải xích lại gần nhau hơn. Thứ năm, những lợi ích kinh tế của nhân dân hai nước: mặc dù quan hệ Việt – Trung chưa chính thức được bình thường hóa trở lại, nhưng những hoạt động giao lưu buôn bán giữa nhân dân vùng biên giới hai nước đã diễn ra mạnh mẽ . Việc bình thường hoá quan hệ Việt – Trung không chỉ là mong muốn của nhân dân hai nước mà còn mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho cả hai quốc gia. Những biến động to lớn của tình hình quan hệ quốc tế và trong nước như trên đã buộc Trung Quốc phải chấp nhận hạ thấp một phần vai trò của mình trong quá trình giải quyết “vấn đề Campuchia”, và điều chỉnh chính sách trong quan hệ với các nước láng giềng Đông Nam Á trong đó có việc thúc đẩy vấn đề bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Ngày 12/8/1990, trong lúc đang ở thăm Singapore, Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng đã đưa ra tuyên bố: “Trung Quốc hy vọng cuối cùng sẽ bình thường hoá quan hệ với Việt Nam”[10, tr. 208]. Đáp lại, ngày 13/8/1990, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (HĐBT) Đỗ Mười đã ra tuyên bố hoan nghênh và khẳng định: “Việt Nam sẵn sàng bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và giải quyết những vấn đề giữa hai nước bằng thương lượng hòa bình”[8, tr. 91]. Ngày 29/8/1990, Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội đã chuyển thông điệp của TBT ĐCS Trung Quốc Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng mời TBT ĐCS Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch HĐBT Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng sang đàm phán với Trung Quốc tại Thành Đô (thủ phủ của tỉnh Tứ Xuyên) trong tháng 9/1990 để thoả thuận về việc giải quyết “vấn đề Campuchia” và bình thường hoá quan hệ Việt – Trung. Từ ngày 03 đến 04/9/1990, cuộc đàm phán Việt – Trung đã diễn ra tại Thành Đô giữa TBT Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch HĐBT Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng của Việt Nam với TBT ĐCS Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lí Bằng của Trung Quốc. Đây là cuộc gặp gỡ đầu tiên của lãnh đạo cấp cao hai nước kể từ khi mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc xấu đi. Từ sau cuộc đàm phán ở Thành Đô, quá trình bình thường hóa quan hệ Việt - Trung bắt đầu có những chuyển biến nhanh hơn: Trước hết là chuyến thăm Trung Quốc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp với tư cách là khách mời đặc biệt của Chính phủ Trung Quốc nhân lễ khai mạc Á vận hội lần thứ 14 (ASIAD 90 diễn ra từ 18 đến 28/9/1990). Báo cáo tại kì họp thứ tư, Quốc hội Trung Quốc khoá VII ngày 25/3/1991, Thủ tướng Lý Bằng đã tuyên bố: “Trung Quốc mong muốn cùng với cộng đồng quốc tế, trong khuôn khổ các văn kiện có liên quan của LHQ, thông qua cố gắng sớm giải quyết toàn diện, công bằng hợp lí “vấn đề Campuchia”. Cùng với sự tiến triển của việc giải quyết chính trị “vấn đề Campuchia”, quan hệ Việt - Trung đã bắt đầu tan băng cũng sẽ được phục hồi từng bước”[2, tr. 3]. Về phía Việt Nam, chủ trương thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc tiếp tục được ĐCS Việt Nam xem là một nhiệm vụ đối ngoại trọng tâm. Báo cáo chính trị của BCH Trung ương khoá VI về các văn kiện trình Đại hội VII của ĐCS Việt Nam xác định: “Phấn đấu góp phần sớm đạt một giải pháp chính trị toàn bộ về “vấn đề Campuchia”, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của Campuchia và Hiến chương Liên hiệp quốc. Thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ Việt – Trung, từng bước mở rộng hợp tác Việt – Trung, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa hai nước thông qua thương lượng”[6, tr. 89]. Thực hiện chủ trương của lãnh đạo hai nước, những hoạt động ngoại giao cấp Thứ trưởng và Bộ trưởng và các cấp cao hơn giữa hai bên đã liên tiếp diễn ra để chuẩn bị cho việc bình thường hoá quan hệ Việt – Trung khi “vấn đề Campuchia” được giải quyết. Từ ngày 28/7 đến 02/8/1991, Đoàn đại diện đặc biệt của Trung ương ĐCS Việt Nam do Chủ tịch nước Lê Đức Anh và Trưởng ban đối ngoại Trung ương Hồng Hà dẫn đầu sang thăm và đàm phán về việc bình thường hóa quan hệ giữ hai Đảng và hai nước Việt Nam - Trung Quốc. Trong buổi làm việc với đoàn đại diện đặc biệt của ĐCS Việt Nam, TBT ĐCS Trung Quốc Giang Trạch Dân đã phát biểu: “chúng ta là hai nước láng giềng, hai ĐCS cầm quyền, không có lí do gì không xây dựng quan hệ láng giềng, hữu hảo với nhau”[7, tr. 25] và thông qua đoàn đại diện đặc biệt của ĐCS Việt Nam, TBT Giang Trạch Dân đại diện Đảng và Nhà nước Trung Quốc mời đoàn cấp cao của Đảng và Nhà nước Việt Nam do TBT Đỗ Mười dẫn đầu sang thăm chính thức Trung Quốc trong năm 1991. Trong bối cảnh Hiệp định Paris về “vấn đề Campuchia” đã được kí kết (23/10/1991) và sự chuẩn bị của BNG hai nước cho việc chính thức bình thường hóa quan hệ đã hoàn tất, từ ngày 05/11/1991 đến 10/11/1991, TBT Đỗ Mười và Chủ tịch HĐBT Võ Văn Kiệt đã dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam sang thăm chính thức nước CHND Trung Hoa theo lời mời của TBT ĐCS Trung Quốc Giang Trạch Dân. Kết thúc chuyên thăm, hai bên đã kí thông cáo chung, tuyên bố bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, bản thông cáo nêu rõ: “Hai bên tuyên bố hai nước Việt Nam – Trung Quốc sẽ phát triển quan hệ hữu nghị và láng giềng thân thiện trên cơ sở năm nguyên tắc: tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; không xâm phạm lẫn nhau; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; bình đẳng cùng có lợi và cùng tồn tại hoà bình. Hai ĐCS Việt Nam và Trung Quốc sẽ khôi phục quan hệ bình thường trên các nguyên tắc độc lập tự chủ, hoàn toàn bình đẳng, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”[12, tr. 2]. Ngoài ra, lãnh đạo hai nước cũng đã kí Hiệp định thương mại và Hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc vùng biên giới giữa hai nước, tạo cơ sở pháp lí đầu tiên cho việc khôi phục quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trên lĩnh vực thương mại và giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ. Chuyến thăm này đã đánh dấu sự bình thường hoá quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, mở ra một trang mới trong lịch sử quan hệ Việt Nam – Trung Quốc sau 13 năm băng giá. 4. Kết luận Khôi phục đàm phán, tiến tới bình thường hóa quan hệ Việt – Trung là một trong những nhiệm vụ đối ngoại trọng tâm của quá trình hiện thực hóa đường lối đối ngoại đổi mới của ĐCS Việt Nam. Đó là một quá trình đầy khó khăn và thử thách. Trong quá trình đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tích cực, sáng tạo và chủ động thực hiện nhiều biện pháp phù hợp với xu thế chung của tình hình quan hệ quốc tế để thúc đẩy Trung Quốc nối lại đàm phán và đưa quan hệ hai nước trở lại bình thường. Có thể nói, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc bình thường hóa là kết quả tất yếu, phù hợp với yêu cầu phát triển của cả hai nước, nhu cầu hoà bình và ổn định trong khu vực và thế giới và đặc biệt là những nỗ lực ngoại giao đầy sáng tạo của Việt Nam. Đây là một thắng lợi lớn trong quá trình đấu tranh ngoại giao với Trung Quốc nói riêng và thành công của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá của Việt Nam từ sau đổi mới nói chung. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo của Văn phòng TW Đảng về công tác đối ngoại trong những năm đổi mới (1989), Phần 1, Cục lưu trữ, Văn phòng Trung ương Đảng. 2. Lí Bằng (1991), “Báo cáo tại kì họp hàng năm Quốc hội Trung Quốc”, Tài liệu tham khảo đặc biệt (TTXVN), ngày 28/3/1991. 3. ĐCS Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần V (t.1), Nxb Sự Thật, Hà Nội. 4. ĐCS Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự Thật, Hà Nội. 5. ĐCS Việt Nam (1989), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 BCH TW khóa VI, Nxb CTQG, Hà Nội. 6. ĐCS Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb CTQG, Hà Nội. 7. Trần Văn Độ (Chủ biên) (2002), Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc những sự kiện 1991 – 2000, Nxb KHXH, Hà Nội. 8. Nguyễn Thị Mai Hoa (2007), Chủ trương của ĐCS Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc từ năm 1975 đến năm 2001, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học KHXH & NV – Đại học Quốc gia Hà Nội. 9. Lê Phụng Hoàng (1994), Một số vấn đề về quan hệ quốc tế ở Đông Nam Á (1975 - 1991), Trường ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh. 10. Lưu Văn Lợi (1998), Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam 1945 – 1995 (t.2), Nxb CAND, Hà Nội. 11. Tiền Kì Tham (2004), Mười câu chuyện ngoại giao (Hồi kí), Trần Hữu Nghĩa và Dương Quốc Anh dịch, Dương Danh Dy hiệu đính, http://www.diendan.org. 12. “Thông cáo chung Việt Nam - Trung Quốc năm 1991”, Báo Nhân Dân, ngày 11/11/1991. 13. Thông tấn xã Việt Nam (1991), Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 26/6/1991. 14. “Tuyên bố chung của CHND Campuchia, CHDCND Lào và CHXHCN Việt Nam về việc rút toàn bộ quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia về nước”, Báo Nhân dân, ngày 6/4/1989. 15. Vũ Quang Vinh (2001), ĐCS Việt Nam lãnh đạo hoạt động đối ngoại (1986 – 2000), Nxb Thanh Niên, Hà Nội.