TS. Phạm Phúc Vĩnh
Trường Đại học Sài Gòn
Tóm tắt
Bài báo phân tích nét sáng
tạo của tỉnh Kiến Phong (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp) trong quá trình gìn giữ và
phát triển lực lượng vũ trang trong giai đoạn 1954 – 1959. Cụ thể là đi sâu tìm
hiểu về chủ trương lợi dụng danh nghĩa của các giáo phái và lực lượng Bình
Xuyên để xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, hỗ trợ có hiệu quả cho phong
trào đấu tranh chính trị của quần chúng trong điều kiện chủ trương của Trung
ương không cho phép sử dụng vũ trang.
Nhờ lực lượng vũ trang được
giữ gìn hiệu quả, nên khi có chủ trương cho phép vũ trang của Hội nghị 15, lực
lượng vũ trang cách mạng tỉnh Kiến Phong phát triển mạnh mẽ và tiến lên giành
thắng lợi quân sự ở Giồng Thị Đam – Gò Quản Cung, mở đầu thời kì tiền Đồng Khởi
ở Nam Bộ.
Từ khóa: tỉnh Kiến Phong, tỉnh Đồng Tháp, lực lượng cách mạng, Giồng
Thị Đam, Gò Quản Cung.
THE PRESERVATION AND DEVELOPMENT OF THE ARMED FORCES IN KIEN PHONG (1954-1959)
Dr. Pham Phuc Vinh - Saigon University
Abstract: This paper analyzed the creative traits of Kien Phong
province (now named Dong Thap province) in the preservation and development of
the armed forces in the period 1954 - 1959. In particular, this paper gave an
insight on the policy of abusing titular of the sects and the Binh Xuyen forces
to build the revolutionary armed forces, give an effective support for the
political movement of the masses in the conditions that the central policy did
not allow using armed forces. Because the armed forces was preserved
effectively, when there was the policy allowing the use of armed forces of
Conference 15, the Revolutionary Armed Forces of Kien Phong province flourished
and gained military victory in Giong Thi Dam – Go Quan Cung, opening the
pre-Dong Khoi period in Southern Vietnam.
Keywords: Kien Phong province, Dong Thap province, the revolutionary
forces, Giong Thi Dam, Go Quan Cung.
1. Quá trình
giữ gìn lực lượng vũ trang ở Kiến Phong từ 1954 đến 1959
1.1. Tình hình Kiến Phong sau Hiệp định Genève
Theo quy định của Hiệp định Genève,
ở khu vực Trung Nam Bộ, lực lượng cách mạng sẽ tập kết tại Cao Lãnh và chuyển
ra miền Bắc trong thời hạn 100 ngày[1].
Ngày 19/10/1954, lực lượng cách mạng hoàn tất việc chuyển quân tại Cao Lãnh
theo đúng kế hoạch đã thỏa thuận.
Cùng với quá trình rút quân,
tháng 10/1954, Trung ương cục đã tiến hành Hội nghị triển khai nhiệm vụ của
Đảng ở miền Nam. Hội nghị đã công bố quyết định thành lập Xứ ủy Nam bộ thay cho
Trung ương cục, toàn Nam Bộ chia làm ba liên tỉnh: Liên tỉnh ủy miền Đông, Liên
tỉnh ủy miền Trung[2] và
Liên tỉnh ủy miền Tây. Tại hội nghị, Xứ ủy Nam bộ đã chỉ đạo: “tất cả công
tác Đảng đều nhằm động viên, tập hợp quần chúng đấu tranh chính trị. Đồng thời
các Đảng bộ phải cảnh giác, sẳn sàng đối phó với khả năng đối phương phá hoại
hiệp định, gây chiến tranh trở lại”[3].
Chấp hành sự chỉ đạo của Xứ
ủy, tổ chức Đảng ở Kiến Phong được bí mật tổ chức lại để lãnh đạo nhân dân đấu
tranh theo phương thức mới: “bằng
sức mạnh của quần chúng và pháp lí của Hiệp định Genève, bảo vệ tổ chức Đảng,
bảo vệ cán bộ, giành quyền dân sinh, dân chủ, giữ vững thành quả cách mạng”[4].
Ngày 31/10/1954, chính quyền
Sài Gòn mở chiến dịch tiếp quản Cao Lãnh. Sau khi tiếp quản Cao Lãnh, quân đội Sài
Gòn đã tiến hành nhiều cuộc hành quân càn quét nhằm vào các khu căn cứ cách
mạng và những người kháng chiến cũ ở Kiến Phong, tiêu biểu là vụ thảm sát 44
người dân vô tội và các chiến sĩ cách mạng ở Bình Thành (huyện Thanh Bình) ngày
11/11/1954, cho quân đội phá đài liệt sĩ và mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc tại
Cao Lãnh, gây nhiều thiệt hại cho lực lượng cách mạng.
Sau khi tuyên bố từ chối
hiệp thương tổng tuyển cử và bầu cử Quốc hội riêng, chính quyền Ngô Đình Diệm
bắt đầu thực hiện giai đoạn hai của chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” trên khắp
miền Nam Việt Nam, trong đó Đồng Tháp Mười là một địa bàn trọng tâm của chiến
dịch này.
Cuối năm 1956, chính quyền
Sài Gòn thực hiện chương trình cải cách điền địa theo dụ số 57, lập dinh điền ở
Đồng Tháp Mười, sửa chữa quốc lộ 30 (An Hữu – Cao Lãnh - Hồng Ngự), đào mới một
số kênh như Phước Xuyên, An Long …, đồng thời cho xây dựng tháp mười tầng cao
42m và bố trí một trung đội bảo an chiếm đóng để kiểm soát các căn cứ cách mạng
ở vùng Đồng Tháp Mười.
Chỉ trong những năm đầu sau khi
Hiệp định được kí kết cho thấy, nếu thực hiện đúng chủ trương đấu tranh chính
trị hòa bình của Trung ương Đảng thì sẽ dẫn đến những tổn thất lớn về lực lượng.
Việc tái lập, duy trì lực lượng vũ trang để bảo vệ phong trào đấu tranh chính
trị là một yêu cầu bức thiết đối với phong trào cách mạng tỉnh Kiến Phong.
1.2. Sáng tạo của tỉnh Kiến Phong trong quá trình giữ
gìn lực lượng (1954 - 1956)
Xây dựng lực lượng vũ trang
để bảo vệ và hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị trước chính sách khủng bố
của chính quyền Sài Gòn là một yêu cầu cấp thiết đối với cách mạng miền Nam sau
Hiệp định Genève, nhưng nếu làm vậy thì sẽ trái với chủ trương đấu tranh chính
trị hòa bình của Trung ương. Làm thế nào để xây dựng được lực lượng vũ trang
trong bối cảnh Trung ương chủ trương chỉ đấu tranh chính trị hòa bình là một
bài toán khó đối với những người trực tiếp lãnh đạo cách mạng miền Nam lúc này.
Trong lúc tưởng chừng như
không có lối thoát như trên, một tình thế bất ngờ xuất hiện: đầu năm 1955, các
lực lượng vũ trang giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo và lực lượng Bình Xuyên đã dạt về
vùng Đồng Tháp Mười và nhiều địa phương khác của tỉnh Kiến Phong. Một bộ phận
của lực lượng Cao Đài Liên minh không chịu theo Trịnh Minh Thế đầu hàng chính
quyền Ngô Đình Diệm đã chạy về bám trụ ở Gãy Cờ Đen - Đồng Tháp Mười. Đặc biệt
là lực lượng Hòa Hảo do Trần Văn Soái (Năm Lửa) đứng đầu đã chạy về vùng Đồng
Tháp Mười[5].
Đến tháng 9/1955, Năm Lửa đã liên hệ và đề nghị phía cách mạng tư vấn giúp lực
lượng Hòa Hảo. Nhân cơ hội này, Đảng bộ tỉnh Kiến Phong đã đưa nhiều cán bộ vào
lực lượng vũ trang Hòa Hảo để tranh thủ, thuyết phục, giáo dục và chỉ huy lực
lượng này. Đồng thời, tỉnh ủy Kiến Phong cũng chủ trương xây dựng lực lượng du
kích xã với tên gọi thôn vệ đội Hòa Hảo giải phóng[6]
(lực lượng này mang danh nghĩa Hòa Hảo, nhưng do cách mạng xây dựng và nắm
giữ).
Đầu tháng 01/1956, chính
quyền Ngô Đình Diệm mở chiến dịch Nguyễn Huệ bình định miền Trung và Tây Nam Bộ
mà trọng điểm là Đồng Tháp Mười và U Minh Thượng nhằm càn quét tàn quân của các
giáo phái. Năm Lửa không chống lại nổi nên đã đưa lực lượng ra đầu hàng vào
ngày 13/2/1956 (tức ngày mùng hai tết Bính Thân). Khi Năm Lửa đầu hàng, các cán
bộ cách mạng trong lực lượng Hòa Hảo đã kịp thời tách ra và giữ được một số
súng đạn tiếp tục kháng chiến. Đồng thời lực lượng Thôn vệ đội Hòa Hảo giải
phóng
do cách mạng nắm giữ cũng được đổi tên là “lực lượng Hòa Hảo li khai
còn ở lại chống Diệm” cho phù hợp với tình hình mới.
Dưới danh nghĩa của lực
lượng vũ trang Hòa Hảo, các chiến sĩ cách mạng đã làm công tác vũ trang tuyên
truyền, xây dựng cơ sở và khi cần thiết thì diệt tề, điệp, ác ôn… làm cho các lực
lượng này khiếp sợ, không dám khủng bố cách mạng trắng trợn như trước nữa.
Lúc đầu, chủ trương này đã
gặp phải sự phản đối của một số lãnh đạo Liên tỉnh ủy do sợ đi không đúng đường
lối chỉ đạo của Trung ương. Nhưng do hiệu quả mang lại từ thực tế sáng tạo này
trong quá trình đấu tranh rất lớn nên đã thuyết phục được những lãnh đạo có chủ
trương thận trọng.
Từ cách làm của Tỉnh ủy Kiến
Phong và một số địa phương khác ở trong vùng, Liên tỉnh ủy Trung Nam bộ đã chính
thức chỉ đạo cho các tỉnh lợi dụng tình hình quân đội giáo phái ra đầu hàng chính
quyền Ngô Đình Diệm, thành lập ngay lực lượng vũ trang để hỗ trợ phong trào đấu
tranh chính trị”[7]. Sau
đó, Liên tỉnh ủy Trung Nam Bộ cho lập Bộ tư lệnh giáo phái (giả) để chỉ huy các
lực lượng vũ trang này ở các tỉnh[8]
thuộc Khu 8 – Trung Nam Bộ.
Những thành công trong thực
tế của chủ trương trên đã được Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ tháng 12/1956 nâng lên
thành chủ trương chung của Nam Bộ; Nghị quyết của Hội nghị Xứ ủy xác định: “Lúc này đấu tranh chính trị đơn thuần là
không được, mà đấu tranh vũ trang thì chưa phải. Do đó, cần tích cực xây dựng
lực lượng vũ trang tuyên truyền, lập đội vũ trang bí mật, tranh thủ vận động,
cải tạo lực lượng giáo phái bị Mĩ - Diệm đánh tan, đứng vào hàng ngũ nhân dân,
lợi dụng danh nghĩa giáo phái để diệt ác ôn”[9].
Nhờ có hoạt động vũ trang, chính
quyền Sài Gòn không dám đẩy mạnh khủng bố, tạo điều kiện thuận lợi cho phong
trào đấu tranh chính trị của nhân dân Kiến Phong phát triển. Chính quyền cách
mạng đã vận động nhân dân không tham gia bỏ phiếu “trưng cầu dân ý” ngày
23/10/1955 do chính quyền Ngô Đình Diệm tổ chức với lí do sợ bị “quân đội Hòa
Hảo” bắn. Tương tự, lực lượng cách mạng tiếp tục sử dụng những biện pháp này để
vận động nhân dân tẩy chay cuộc bầu cử Quốc hội riêng ở miền Nam do chính quyền
Ngô Đình Diệm tổ chức ngày 04/3/1956.
Nhờ sử dụng lực lượng vũ
trang dưới danh nghĩa giáo phái, tỉnh Kiến Phong đã tạo ra được thế trận kết
hợp hình thức đấu tranh chính trị với vũ trang trong đấu tranh chống chính sách
độc tài, phát xít của chính quyền Ngô Đình Diệm. Nhờ vậy, trong những năm 1956
– 1957, nhiều hoạt động đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị ở Kiến Phong diễn
ra thành công[10]. Phong
trào đấu tranh của nông dân chống dụ số 57 của chính quyền Ngô Đình Diệm cũng
diễn ra sôi nổi ở nhiều nơi[11].
Cách làm đầy sáng tạo trên
của Tỉnh ủy Kiến Phong đã giúp địa phương xây dựng được lực lượng vũ trang làm
chỗ dựa cho phong trào đấu tranh chính trị khá hiệu quả. Và trong một chừng mực
nhất định, có thể nói, phong trào cách mạng ở Kiến Phong trong giai đoạn này
diễn ra dưới hình thức “đấu tranh chính trị có kết hợp vũ trang tự vệ” mà vẫn
không vi phạm chủ trương (về hình thức – tg) của Trung ương.
1.3. Quá trình giảm sút và phục hồi lực lượng vũ trang
cách mạng (1956 – 1959)
Trong giai đoạn từ tháng 7/1957
đến tháng 9/1958, Đảng bộ tỉnh Kiến Phong chủ trương hạn chế việc xây dựng lực
lượng vũ trang và ra lệnh giảm bớt lực lượng vũ trang, không được nổ súng
(không chủ động trừ gian, phá tề…), giải thể Ủy ban hành chính giải phóng Hòa
Hảo (do cách mạng lập ra)… để đảm bảo nghiêm túc chủ trương đấu tranh chính trị
của trung ương[12].
Bộ đội phải phân tán rút sâu vào Đồng Tháp Mười, một số phân tán nhỏ thành từng
tổ, từng bán đội tản ra các vùng đông dân để thực hiện “điều lắng”[13].
Chủ trương trên được đưa ra
đúng vào lúc chính quyền Sài Gòn tập trung lực lượng tổng lực đánh phá phong
trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ của quần chúng cách mạng (kéo dài từ giữa
năm 1957 đến giữa năm 1959)[14],
làm cho phong trào cách mạng ở Kiến Phong bị đẩy sâu vào tình thế khó khăn và
tổn thất nghiêm trọng[15].
Phong trào đấu tranh vũ trang hỗ trợ cho đấu tranh chính trị vì thế cũng bị
giảm sút[16].
Đánh giá về những tác động
của chủ trương giảm bớt lực lượng vũ trang, không được chủ động nổ súng trong
giai đoạn từ 7/1957 đến 9/1958 đối với phong trào cách mạng ở Kiến Phong, cuốn
“Công tác binh vận trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975” viết: “phong trào cách mạng của quần chúng mất thế
dựa vào lực lượng võ trang, đã núng thế, tạm lắng dịu, đấu trang lẻ tẻ, có
khuynh hướng cải lương, có nguy cơ khó đứng vững”[17].
Tháng 9/1958, tỉnh ủy Kiến
Phong trở lại thực hiện chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang bí mật để làm
chỗ dựa cho đấu tranh chính trị[18],
tái lập lực lượng vũ trang và đẩy mạnh diệt ác, phá kiềm để tháo gỡ thế kìm kẹp
quần chúng của quân đội Sài Gòn[19].
Đến đầu năm 1959, lực lượng vũ trang tỉnh Kiến Phong được sử dụng tập trung hơn
và thường xuyên vũ trang tuyên truyền hỗ trợ cho hoạt động đấu tranh chính trị
của quần chúng[20].
Sự phục hồi và hoạt động của
lực lượng vũ trang ở Kiến Phong từ cuối năm 1958 đã tạo ra được chỗ dựa vững
chắc cho hoạt động đấu tranh chính trị. Đây là nền tảng cho sự phát triển mạnh
mẽ của lực lượng vũ trang ở Kiến Phong khi có chủ trương chính thức phục hồi
lực lượng vũ trang cách mạng ở miền Nam của Hội nghị lần thứ 15 Ban chấp hành
Trung ương Đảng (Khóa II).
2. Chiến thắng
Giồng Thị Đam – Gò Quản Cung ở tỉnh Kiến Phong
2.1. Sự phát triển của lực lượng vũ trang ở Kiến Phong
sau Hội nghị 15
Tháng 1/1959, Hội nghị lần
thứ 15 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa II) đã thống nhất về chủ trương đối
với cách mạng miền Nam là đấu tranh chính trị có kết hợp sử dụng vũ trang. Tuy
nhiên, Nghị quyết của Hội nghị vẫn chưa được chính thức thông qua[21].
Trong bối cảnh đó, trước khi rời Hà Nội, ông Phạm Văn Xô - đại diện Xứ ủy Nam Bộ
tham dự Hội nghị đến chào từ biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh và hỏi Bác thêm về chủ
trương đấu tranh vũ trang ở miền Nam, Bác trả lời: “dù sao cũng không thể để cách mạng miền Nam chịu tổn thất hơn nữa. Xứ
ủy các chú có phải là Đảng không? Trung ương ở xa, các chú phải tùy tình hình,
cân nhắc kĩ lưỡng mà quyết định và chịu trách nhiệm”[22].
Câu nói của Hồ Chủ tịch đã làm lãnh đạo Xứ ủy càng thêm vững tin vào chủ trương
vũ trang.
Không chờ đến khi Nghị quyết
15 của Trung ương được chính thức thông qua và phổ biến chính thức, tinh thần
cho vũ trang của Hội nghị 15 đã lan truyền đến nhiều cán bộ lãnh đạo cấp cao ở
Nam Bộ. Tuy chưa chính thức cho phép nhưng việc phục hồi và phát triển lực
lượng vũ trang ở nhiều địa phương của Nam Bộ đã được khởi động. Tại Kiến Phong,
các lực lượng vũ trang địa phương được tổ chức lại và phát triển mạnh mẽ và đến
tháng 9/1959, Liên tỉnh ủy Trung Nam Bộ đổi phiên hiệu Tiểu đoàn 2 Kiến Phong
thành Tiểu đoàn 502, sẳn sàng cho một thời kì đấu tranh mới.
2.2. Diễn biến và kết quả của trận chiến Giồng Thị Đam
– Gò Quản Cung
Ngày 25/9/1959, Ban chỉ huy Tiểu
đoàn 502 đang đóng quân tại Giồng Thị Đam (Tân Hộ Cơ - Hồng Ngự, nay thuộc
huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp), điều đại đội Bảy Phú (Thanh Bình) cùng một bán
đội của đại đội Năm Bình chuẩn bị mở đợt hoạt động trên tuyến sông Sở Hạ. Lực
lượng gồm có 42 người, trang bị 35 khẩu súng (có 3 trung liên).
Trong thời điểm này, Quân khu
5 của chính quyền Sài Gòn điều 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 42 thuộc Sư đoàn 23
bộ binh ddang hành quân đánh diệt quân giải phóng tại căn cứ Hồng Ngự và bảo vệ
công trình kênh đào An Long.
Sáng sớm 26/9/1959, lực
lượng cách mạng tại Giồng Thị Đam phát hiện quân đội chủ lực của chính quyền Sài
Gòn đang hành quân bằng xuồng cặp theo giồng Giàng. Chỉ huy tiểu đoàn 502 cân
nhắc tình hình và quyết định tấn công trong tình trạng so sánh lực lượng nghiêng
về phía quân đội Sài Gòn[23].
Chỉ sau 20 phút chiến đấu, lực
lượng cách mạng đã đánh chìm 83 xuồng của quân đội Việt Nam cộng hòa, bắt sống
75 người; thu 7 súng trung liên, 39 súng tiểu liên, 49 súng trường tự động, 4
súng phóng lựu, 6 súng ngắn, 7 máy thông tin PRC10, 83 chiếc xuồng và nhiều
quân trang, quân dụng khác. Phía cách mạng có một người hi sinh và hai người bị
thương.
Qua khai thác tù binh, lực
lượng vũ trang cách mạng biết được quân đội Sài Gòn còn có một cánh quân khác
là Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn 42 đang theo hướng An Phong lên Hồng Ngự và sẽ
đi qua vùng này. Toàn bộ lực lượng cách mạng nhanh chóng tiến về phía Gò Quản
Cung cách Giồng Thị Đam khoảng 3km bám trụ ở đây và chuẩn bị tác chiến.
Khoảng 14 giờ ngày
26/9/1959, Tiểu đoàn 2 của quân đội Sài Gòn từ An Phong đi về hướng Gò Quản
Cung. Với súng đạn vừa thu được, lực lượng cách mạng đã tổ chức phục kích, bắt
thêm 30 tù binh, thu 20 súng, 2 máy vô tuyến điện và chỉ có 17 xuồng của quân
đội Sài Gòn chạy thoát[24].
Phía cách mạng có một người bị thương.
Đây là chiến thắng lớn đầu
tiên của Tiểu đoàn 502 và là trận đánh lớn nhất tại Kiến Phong nói riêng và
trên toàn Nam Bộ nói chung kể từ sau Hiệp định Genève. Nó đã thật sự tạo ra một
bước ngoặt lớn đối với hoạt động vũ trang ở Kiến Phong nói riêng, Đồng bằng
Sông Cửu Long và cả Nam Bộ nói chung.
Chiến thắng Giồng Thị Đam –
Gò Quản Cung đã làm chấn động chính quyền Sài Gòn; tổng thống Ngô Đình Diệm đã
chỉ thị cho thành lập ngay Hội đồng quân kỉ và giao cho đại tướng Lê Văn Tỵ - Tổng
tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn trực tiếp chỉ đạo tiến hành mổ xẻ nguyên nhân
thất bại của trận đánh. Báo cáo tình hình Quân khu 5[25]
tháng 12/1959 của Bộ tổng tham mưu Quân lực Việt Nam cộng hòa đánh giá sự phát
triển của hoạt động đấu tranh vũ trang cách mạng cuối năm 1959 như sau: “tình hình đặc biệt nghiêm trọng bởi ngoài
các vụ khủng bố, ám sát thường xuyên, hoạt động vũ trang của Việt Cộng gia
tăng. Rõ ràng Việt Cộng tiếp tục theo đuổi chủ trương tập trung và vẫn cố gắng
tạo thế chủ động với các hoạt động táo bạo như chấp nhận giao tranh… nhất là ở
các tỉnh Kiến Phong, Kiến Tường, An
Xuyên…”[26].
Chiến thắng Giồng Thị Đam –
Gò Quản Cung phù hợp với chủ trương mới của Trung ương. Vì vậy, tháng 10/1959,
Thường vụ Khu ủy Khu 8 đã thông báo trước cho riêng Tỉnh ủy Kiến Phong tinh
thần chỉ đạo “trên cho làm vũ trang” của Hội nghị trung ương lần thứ 15. Những
kinh nghiệm xây dựng lực lượng vũ trang của tỉnh Kiến Phong đã được phổ biến
tại Hội nghị triển khai Nghị quyết 15 của Liên tỉnh ủy Trung Nam Bộ vào tháng
12/1959 và đồng thời Liên Tỉnh ủy đã giao cho tỉnh Kiến Phong nhiệm vụ hỗ trợ
các tỉnh An Giang, Kiến Tường đang có phong trào vũ trang yếu.
3. Kết luận
Trong giai đoạn từ 1954 đến 1959,
Kiến Phong đã lợi dụng danh
nghĩa của các giáo phái li khai chống chính quyền Ngô Đình Diệm để xây dựng và
phát triển lực lượng vũ trang làm chỗ dựa cho phong trào đấu tranh chính trị. Sự
sáng tạo này đã giúp Đảng bộ tỉnh Kiến Phong lãnh đạo nhân dân “đấu tranh chính
trị kết hợp có vũ trang tự vệ” trong
hoàn cảnh Trung ương không cho phép vũ trang.
Chủ
trương lợi dụng
danh nghĩa các giáo phái để xây dựng và
phát triển lực lượng vũ trang, làm chỗ dựa cho phong trào đấu tranh chính trị
của quần chúng trong hoàn cảnh Trung ương không cho phép vũ trang ở Kiến Phong
và nhiều địa phương khác ở Nam Bộ là một điểm rất nổi bật, thể hiện tính
năng động, sáng tạo trong quá trình
lãnh đạo cách mạng của Tỉnh ủy Kiến Phong nói riêng, Liên tỉnh ủy Trung Nam bộ
và Xứ ủy Nam Bộ nói chung trong giai đoạn 1954 – 1959.
Nhờ có chủ trương sáng tạo
và đúng đắn trên, tỉnh Kiến Phong trở thành địa phương đi đầu, điển hình của
Khu 8 và Nam Bộ trong việc giữ gìn và phát triển lực lượng vũ trang trong giai
đoạn 1954 - 1959. Nhờ vậy, sau Nghị quyết 15, lực lượng vũ trang Kiến Phong
phát triển mạnh mẽ và lập nên được kì tích
chiến thắng Giồng Thị Đam - Gò Quản Cung, tạo thế và lực mới cho lực
lượng cách mạng trong toàn Khu Trung Nam Bộ, đưa phong trào cách mạng ở đây
bước sang giai đoạn chuẩn bị sẳn sàng tiến lên “Đồng Khởi” - thời kì “tiền Đồng
Khởi”, góp phần chuẩn bị trực tiếp cho
phong trào “Đồng Khởi” mạnh mẽ diễn ra trong toàn khu Trung Nam Bộ năm 1960.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp (1997), Lịch
sử Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp, Nxb Đồng Tháp, Đồng Tháp.
[2]. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh
Đồng Tháp (1998), Những trận đánh của lực lượng vũ trang tỉnh Đồng Tháp -
Kiến Phong đánh giặc, Nxb QDND, Hà Nội.
[3]. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh
Đồng Tháp (1990), Ba mươi năm kháng chiến của quân dân Đồng Tháp (1945 -
1975), Đồng Tháp.
[4]. Đảng bộ huyện Cao Lãnh
(2005), Lịch sử truyền thống cách mạng
huyện Cao Lãnh 1954 – 1975, Ban tuyên giáo huyện Cao Lãnh, Đồng Tháp.
[5]. Đảng Cộng Sản Việt Nam,
Văn kiện đảng toàn tập, Nxb CTQG, HN, 2000. Tập 17, 18, 19, 20, 21.
[6]. Đảng ủy - Bộ tư lệnh
quân khu 9 (1998), Quân khu 8 ba mươi năm kháng chiến (1954 - 1975), Nxb
QDND, Hà Nội.
[7]. Lê Hồng Lĩnh (2005), Cuộc
đồng khởi kì diệu ở miền Nam Việt Nam (1959 - 1960), Nxb Đà Nẵng.
[8]. Cao Văn Lượng - Phạm
Quang Toàn - Quỳnh Cư (1981), Tìm hiểu phong trào Đồng Khởi ở miền Nam Việt
Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
[9].
GS.TS. Hoàng Phương (Chủ biên) (2005), Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 11,
Nxb CTQG, Hà Nội.
[10].
Tỉnh ủy Đồng Tháp (2005), Công tác binh vận trong cuộc kháng chiến chống Mĩ
cứu nước ở tỉnh Đồng Tháp, Ban tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Tháp, Đồng Tháp.
[11].
Viện LSQS Việt Nam (1996), Lịch sử kháng
chiến chống Mĩ cứu nước 1954 – 1975, tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội.
Nguồn: Tạp chí Lịch sử Quân sự, Số tháng
01/2017.
[1] Ở khu vực Tây Nam bộ, lực lượng cách mạng tập kết tại
Cà Mau và di chuyển ra miền Bắc trong vòng 200 ngày; ở Đông Nam bộ, địa điểm
tập kết là Hàm Tân và Xuyên Mộc với thời hạn 80 ngày.
[2] Liên tỉnh ủy miền Trung
bao gồm các tỉnh: Long An, Mĩ Tho, Gò Công, Bến Tre, Kiến Tường, Kiến Phong, An
Giang.
[3] Đảng ủy - Bộ tư lệnh quân khu 9 (1998), Quân khu 8
ba mươi năm kháng chiến (1954 - 1975), Nxb QDND, Hà Nội, tr. 289.
[4] Đảng ủy - Bộ tư lệnh quân khu 9 (1998), Sách đã
dẫn, tr.
290.
[6] Tỉnh ủy Đồng Tháp (2005), Công tác binh vận trong
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước ở tỉnh Đồng Tháp, Ban tuyên giáo tỉnh ủy
Đồng Tháp, Đồng Tháp, tr. 16.
[7] Đảng bộ huyện Cao Lãnh (2005), Lịch sử truyền thống cách mạng huyện Cao Lãnh 1954 – 1975, Ban
tuyên giáo huyện Cao Lãnh, Đồng Tháp, tr. 35.
[8] Đảng ủy - Bộ tư lệnh quân khu 9 (1998), Sách đã
dẫn, tr. 304.
[9] Đảng ủy - Bộ tư lệnh quân khu 9 (1998), Sách đã
dẫn, tr. 308.
[10] Tiêu biểu là trận phục kích của lực lượng vũ trang
cách mạng tại Me Nước xã Tân Thạnh huyện Thanh Bình vào tháng 8/1956 và cuộc
đấu tranh của 6000 đồng bào ở huyện Mĩ An tại dinh quận trưởng vào tháng
01/1957 đòi thả 100 thanh niên bị chính quyền Sài Gòn bắt lính và buộc chúng
phải thả hết những thanh niên này về nhà.
[11] Phong trào diễn ra mạnh mẽ ở các xã Bình Thạnh, Phong
Mĩ thuộc huyện Cao Lãnh, Bình Thành, Tân Phú, Tân Thạnh thuộc huyện Thanh Bình.
[12] Từ tháng 7/1957 đến tháng 9/1958, Nguyễn Kim Nha và
Nguyễn Văn Thử - Tám Thử (Sáu Sa) lần lượt làm Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Kiến Phong.
Trong giai đoạn này, tỉnh ủy Kiến Phong thực hiện chủ trương chấp hành nghiêm
chỉnh chủ trương của Trung ương về đấu tranh chính trị, do đó hoạt động xây
dựng lực lượng vũ trang cũng không được chú trọng đúng mức.
[13] Bí mật điều cán bộ đảng viên ở vùng này đến vùng khác
để tránh địch theo dõi và phát hiện.
[14] Đặc biệt nghiêm là trong tháng 9/1958, lợi dụng mùa
nước nổi, quân đội Sài Gòn mở nhiều cuộc càn quét vào vùng Đồng Tháp Mười gây
cho lực lượng cách mạng nhiều tổn thất, Bí thư tỉnh ủy Kiến Phong - Nguyễn Văn
Thử bị bắt trong đợt này.
[15] Tiêu biểu như vụ đột kích
bất ngờ của quân đội Sài Gòn vào gò Cà Dâm ngày 31/10/1957, hầu hết Ban chỉ huy
tiểu đoàn II – Bình Xuyên cùng một số cán bộ bị bắt; hàng chục tù chính trị ở
Bắc Cao Lãnh và cầu sắt Vàm Xáng xã Phong Mĩ (Cao Lãnh) bị thủ tiêu, đặc biệt là
vụ thủ tiêu 52 tù chính trị tại xã Tịnh Thới (Cao Lãnh) chỉ trong một đêm.
[16] Trong toàn tỉnh chỉ còn một số vụ đấu tranh nhỏ như
trong tháng 8/1957, lực lượng cách mạng ở Kiến Phong đã kết hợp nội ứng lấy đồn
Cây Điệp xã Tân Thuận Đông[Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp (1997), Sách
đã dẫn, tr. 44].
[17] Tỉnh ủy Đồng Tháp (2005), Công tác binh vận trong
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước ở tỉnh Đồng Tháp, Ban tuyên giáo tỉnh ủy
Đồng Tháp, Đồng Tháp, tr. 35.
[18] Tháng 9/1958, Liên tỉnh ủy
Trung Nam Bộ điều động ông Nguyễn Văn Phối - Thường vụ Liên tỉnh ủy trở lại làm
Bí thư tỉnh ủy Kiến Phong, từ đó chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang bí mật
để làm chỗ dựa cho đấu tranh chính trị được phục hồi.
[19] Tiêu biểu cho các hoạt động
này là vụ tập kích tiêu diệt Trưởng đồn Cây Me (Tân Thành) và vụ đột nhập quận lị Mĩ An
tiêu diệt cảnh sát trưởng xã Mĩ Hội…
[20] Nhân sự kiện chính quyền Sài
Gòn đầu độc tù chính trị tại nhà tù Phú Lợi (2/1959), thực hiện chủ trương của
Trung ương và Liên tỉnh ủy, các địa phương trong tỉnh đã phát động phong trào
đấu tranh tố cáo tội ác thảm sát tù nhân chính trị của Mĩ - Diệm. Hàng chục
ngàn truyền đơn, khẩu hiệu đã được rải và dán khắp nơi. Cùng với hoạt động đấu
tranh chính trị của quần chúng, lực lượng vũ trang ở Kiến Phong đã tổ chức nhiều
hoạt động tuyên truyền ở các khu dinh điền, vạch trần tội ác của kẻ thù, kêu
gọi nhân dân đấu tranh đòi trở về quê cũ làm ăn.
[21] Sau Hội nghị tháng 1/1959, Nghị quyết của Hội nghị
vẫn chưa được thông qua (đến tháng 5/1959 Hội nghị lần thứ 15 họp lần 2, văn
bản nghị quyết chính thức của Hội nghị mới được thông qua). Song do nhiều lí do
khác nhau mà việc chính thức phổ biến tinh thần của Hội nghị 15 xuống các địa
phương một cách rộng rãi phải chờ đến tháng 12/1959 mới được tiến hành.
[22] Lê Hồng Lĩnh (2005), Cuộc đồng khởi kì diệu ở miền
Nam Việt Nam (1959 - 1960), Nxb Đà Nẵng, Tp. Đà Nẵng, tr. 268.
[23] Ban đầu trinh sát cách mạng phát hiện chỉ có 9 xuồng
của quân đội Sàu Gòn đi về phía Giồng Thị Đam, nhưng sau đó phát hiện tiếp cách
đó khoảng 300 mét còn thêm khoảng hơn 70 chiếc nữa. Ngược lại, lực lượng của cách mạng có
một đại đội - 42 tay súng với 13 chiếc xuồng. Tuy nhiên, phía cách mạng có ưu
thế hơn ở chỗ bộ đội thạo nghề sông nước, dùng sào để chống xuồng rất nhanh còn
quân đội Sài Gòn không có kinh nghiệm đi xuồng trên vùng nước cạn, dùng dầm để
bơi xuồng nên không thể “vừa bắn, vừa bơi” được.
[24] Theo Lịch sử
Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp (trang 65), quân đội Sài Gòn chỉ còn lại 3 thuyền
chạy thoát.
[25] Theo cách phân vùng lãnh thổ
quân sự của chính quyền Sài Gòn, Quân khu 5 tương ứng với vùng đồng bằng sông
Cửu Long.
[26] Hoàng Phương (Chủ biên) (2005), Lịch sử quân sự
Việt Nam, tập 11, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr. 108.