(TCTG)
– Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu phấn đấu của
Người là một, đó là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; đó là
làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đó cũng chính là mục
tiêu tổng quát theo cách diễn đạt của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã hình thành một
hệ thống quan điểm hết sức đặc sắc về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong phương
thức tiếp cận chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh có nhiều định nghĩa khác nhau:
-
Định nghĩa chủ nghĩa xã hội như một chế độ xã hội hoàn chỉnh đối lập với chế độ
tư bản chủ nghĩa;
-
Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách chỉ ra các mặt riêng biệt của nó (về kinh
tế, chính trị, xã hội, văn hoá, quan hệ quốc tế…);
-
Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bắng cách nêu bật mục tiêu (tổng quát và cụ thể) của
nó, v.v.
Trong
các cách tiếp cận đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội. Bởi lẽ, theo Người, mục tiêu là sự thể hiện cô đọng nhất các bản chất đặc
trưng, tính ưu việt vốn hàm chứa trong chế độ xã hội tương lai mà chúng ta xây
dựng.
Hồ
Chí Minh ý thức được rõ ràng giá trị của chủ nghĩa xã hội về mặt lý luận là quan
trọng, nhưng vấn đề quan trọng hơn là tìm ra con đường để thực hiện những giá
trị này. Điểm then chốt, có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng của Hồ Chí Minh
là đề ra các mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau ở nước ta. Chính thông qua quá trình đề ra
các mục tiêu đó, chủ nghĩa xã hội được biểu hiện với việc thỏa mãn các nhu cầu,
lợi ích thiết yếu của người lao động, theo các nấc thang từ thấp đến cao, tạo
ra tính hấp dẫn, năng động của chế độ xã hội mới.
Vào
những năm hai mươi thế kỷ XX, Hồ Chí Minh xác định mục tiêu chung của chủ nghĩa
xã hội là đảm bảo cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự
do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no, việc làm cho mọi người và niềm vui, hoà
bình, hạnh phúc cho mọi người. Nghĩa là, chủ nghĩa xã hội hướng tới bảo đảm các
giá trị làm người chân chính trong quá trình phát triển các quan hệ xã hội mang
đúng bản chất người cao quý.
Vào
những năm năm mươi, sáu mươi, khi miền Bắc trực tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Người xác định rõ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là thoả mãn các nhu cầu sinh tồn
và phát triển của con người: chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân
lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no
và sống một đời hạnh phúc; hoặc ở mức độ khái quát cao hơn: mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội là không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, cả đời
sống vật chất và cả đời sống tinh thần. Đây là cách diễn đạt Người thường dùng
nhất.
Ở
Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu phấn đấu của Người
là một, đó là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; đó là làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đó cũng chính là mục tiêu tổng
quát theo cách diễn đạt của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội cũng chính là khát vọng, mong muốn cháy bỏng mà Hồ
Chí Minh hy sinh cả cuộc đời mình để phấn đấu vươn tới: xây dựng một nước Việt
Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào
sự nghiệp cách mạng của thế giới.
Quan
niệm của Hồ Chí Minh về khát vọng, về mục tiêu cao cả của chế độ xã hội mới-chủ
nghĩa xã hội-rất gần với triết lý nhân sinh của Phật giáo: “Dĩ chúng tâm vi kỷ
tâm” (lấy cái tâm của người khác làm cái tâm của chính mình). Vì thế, cách nói
và diễn đạt này dễ đi vào lòng người, dễ được chấp nhận, bởi nó không hoàn toàn
xa lạ với tâm thức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Bằng cách xác định mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh cho thấy, khi đề cập đến một vấn đề hiện
đại, Người vẫn đứng trên mảnh đất cội rễ truyền thống Việt Nam, tạo nên một
dòng chảy văn hoá liền mạch từ quá khứ, qua hiện tại, để hướng tới tương lai
theo một hệ chuẩn giá trị nhất quán, nhân văn và nhân đạo.
Theo
Hồ Chí Minh, hiểu mục đích của chủ nghĩa xã hội, nghĩa là nắm bắt nội dung cốt
lõi con đường lựa chọn và bản chất thực tế xã hội mà chúng ta phấn đấu xây dựng.
Tiếp cận chủ nghĩa xã hội về phương diện mục đích là một nét đặc sắc, thể hiện
phong cách và năng lực tư duy lý luận khái quát của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh có
nhiều cách đề cập mục đích của chủ nghĩa xã hội. Có khi Người trả lời một cách
trực tiếp: “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách đơn giản và dễ hiểu
là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết
là nhân dân lao động”(1). Hay “mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng
nâng cao mức sống của nhân dân”(2). Hoặc Người diễn giải mục đích tổng quát này
thành các tiêu chí cụ thể: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ
mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động
được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần được xóa bỏ… Tóm lại, xã
hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là
chủ nghĩa xã hội”(3). Nhiều khi Người nói một cách gián tiếp, không nhắc đến chủ
nghĩa xã hội, nhưng xét về bản chất, đó cũng chính là mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội theo quan niệm của Người. Kết thúc bản Tài liệu tuyệt đối bí mật (sau gọi
là Di chúc), Hồ Chí Minh viết: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
cách mạng thế giới”(4).
Hồ
Chí Minh quan niệm mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sống
nhân dân. Đó là sự tin tưởng cao độ vào lý tưởng vì dân. Theo Người, muốn nâng
cao đời sống nhân dân, phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là nâng
cao đời sống nhân dân, quan điểm này có ý nghĩa sâu sắc đối với các thế hệ người
Việt Nam trong quá trình xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn. Cách tư duy lấy
chủ nghĩa xã hội làm điểm xuất phát tuyệt đối, làm cơ sở cho mọi hoạt động thực
tiễn cần phải được bổ sung bằng sự tác động trở lại và chủ nghĩa xã hội cũng phải
được làm rõ bởi hàng loạt các quan hệ khác. Mục đích nâng cao đời sống toàn dân
là tiêu chí tổng quát để khẳng định và kiểm nghiệm tính chất xã hội chủ nghĩa của
các lý luận chủ nghĩa xã hội và chính sách thực tiễn. Trượt ra khỏi quỹ đạo đó
thì hoặc là chủ nghĩa xã hội giả hiệu, hoặc không có gì tương thích với chủ
nghĩa xã hội.
Chỉ
rõ và nêu bật mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã khẳng định tính ưu
việt của chủ nghĩa xã hội so với chế độ xã hội đã tồn tại trong lịch sử, chỉ ra
nhiệm vụ giải phóng con người một cách toàn diện, theo các cấp độ: từ giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, xã hội đến giải phóng từng cá nhân con người,
hình thành các nhân cách phát triển tự do. Quan niệm này của Hồ Chí Minh hoàn
toàn thống nhất với quan điểm mác-xít khi nói về xã hội tương lai, với tư cách
là một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát
triển tự do của tất cả mọi người và đạt đến chiều sâu nhất, triệt để nhất.
Quá
trình đi tới mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài,
trải qua một thời kỳ quá độ, nhiều bước trung gian, quá độ nhỏ. Đối với cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh cho rằng: “Chúng ta phải xây dựng một
xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải
thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu
xa hàng ngàn năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp
bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới không có bóc lột áp bức. Muốn thế, chúng
ta phải dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước
công nghiệp… Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn
hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”(5). Như vậy, Hồ Chí Minh đã xác định
các mục tiêu cụ thể của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là:
Mục
tiêu chính trị: trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chế độ chính trị phải
là chế độ chính trị dân chủ, do nhân dân lao động là chủ và làm chủ; Nhà nước
là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước có hai chức năng: dân chủ với nhân dân,
chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Hai chức năng đó không tách rời nhau, mà
luôn luôn đi đôi với nhau. Một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải phát huy quyền
dân chủ và sinh hoạt chính trị của nhân dân; mặt khác, lại yêu cầu phải chuyên
chính với thiểu số phản động chống lại lợi ích của nhân dân, chống lại chế độ
xã hội chủ nghĩa.
Để
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ con đường và biện pháp
thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp, nâng cao năng lực hoạt động của các
tổ chức chính trị – xã hội của quần chúng; củng cố các hình thức dân chủ đại diện,
tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý của các cơ quan lập pháp, hành pháp và
tư pháp, xử lý và phân định rõ chức năng của chúng.
Hồ
Chí Minh xác định rõ dân chủ như một giá trị phổ biến mà loài người mong muốn
và đến chế độ xã hội chủ nghĩa giá trị phổ quát này mới đạt đến mức độ hoàn bị
nhất. Giá trị dân chủ là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội được Người diễn đạt bằng
một thứ ngôn ngữ bình dị, nhưng ẩn chứa nhiều điều lớn lao, hệ trọng: dân chủ
là của quý báu nhất của nhân dân; chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân
là người chủ; bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân,
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Mặt khác, Người còn xác định dân chủ như
một động lực của sự phát triển: thực hành dân chủ là chiếc chìa khoá vạn năng
giải quyết mọi khó khăn; dân chủ là chìa khoá của mọi tiến bộ và phát triển…
Quan niệm này đặt nền tảng và giữ vai trò chủ đạo trong lý luận xây dựng Nhà nước,
xây dựng mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, nhất là trong điều kiện Đảng cầm
quyền và lãnh đạo Nhà nước.
Mục
tiêu kinh tế: nền kinh tế mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
với công-nông nghiệp hiện đại, khoa học-kỹ thuật tiên tiến, cách bóc lột theo
chủ nghĩa tư bản được bỏ dần, đời sống vật chất của nhân dân ngày càng được cải
thiện và nâng cao.
Nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần phát triển toàn diện các ngành mà những
ngành chủ yếu là công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, trong đó “công nghiệp
và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế nước nhà”. Kết hợp các loại lợi ích
kinh tế là vấn đề rất được Hồ Chí Minh quan tâm. Người đặc biệt nhấn mạnh chế độ
khoán là một trong những hình thức của sự kết hợp lợi ích kinh tế của các chủ
thể trên các quy mô khác nhau.
Mục
tiêu văn hóa-xã hội: theo Hồ Chí Minh, văn hóa là một mục tiêu cơ bản của cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Văn hóa thể hiện trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã hội,
đó là xóa nạn mù chữ, xây dựng, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, xây dựng
phát triển văn hóa nghệ thuật, thực hiện nếp sống mới, thực hành vệ sinh phòng
bệnh, giải trí lành mạnh, bài trừ mê tín dị đoan, khắc phục phong tục tập quán
lạc hậu…
Về
bản chất của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Người khẳng định “phải xã hội
chủ nghĩa về nội dung”; để có một nền văn hóa như thế ta phải phát huy vốn cũ
quý báu của dân tộc, đồng thời học tập văn hóa tiên tiến của thế giới. Phương
châm xây dựng nền văn hóa mới là: dân tộc, khoa học, đại chúng. Hồ Chí Minh nhắc
nhở phải làm cho phong trào văn hóa có bề rộng, đồng thời phải có bề sâu. Trong
khi đáp ứng mặt giải trí thì không được xem nhẹ nâng cao tri thức của quần
chúng, đồng thời Người luôn luôn nhắc nhở phải làm cho văn hóa gắn liền với lao
động sản xuất…
Hồ
Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa là đào tạo
con người. Bởi lẽ, mục tiêu cao nhất, động lực quyết định nhất của công cuộc
xây dựng chế độ xã hội mới chính là con người. Trong lý luận xây dựng con người
xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh quan tâm trước hết về mặt tư tưởng. Người cho rằng:
“Muốn có con người xã hội chủ nghĩa, phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa”, tư tưởng
xã hội chủ nghĩa ở mỗi con người là kết quả của việc học tập, vận dụng, phát
triển chủ nghĩa Mác-Lênin, nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội.
Hồ
Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh đến trau dồi, rèn luyện đạo đức cách mạng; đồng thời
Người cũng rất quan tâm đến mặt tài năng, luôn tạo điều kiện để mỗi người rèn
luyện tài năng, đem tài năng cống hiến cho xã hội. Tuy vậy, Hồ Chí Minh luôn gắn
tài năng với đạo đức. Theo người, “có tài mà không có đức là hỏng”; dĩ nhiên đức
phải đi đôi với tài, nếu không có tài thì không thể làm việc được. Cũng như vậy,
Người luôn gắn phẩm chất chính trị với trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ
trong đó “chính trị là tinh thần, chuyên môn là thể xác”. Hai mặt đó gắn bó thống
nhất trong một con người. Do vậy, tất cả mọi người đều phải luôn luôn trau dồi
đạo đức và tài năng, vừa có đức vừa có tài, vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Quan
niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội được Đảng Cộng sản Việt
Nam kế thừa, phát triển và ngày càng hoàn thiện dần cùng với sự phát triển tư
duy lý luận về chủ nghĩa xã hội nói chung. Điều này được thể hiện rõ trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991).
25 năm sau, quan niệm trên đây về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội đã được Đại hội
XI của Đảng sửa đổi, bổ sung và diễn đạt lại: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu
nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(6).
Nếu
so sánh với quan niệm được V.I.Lênin trình bày trong “Nhà nước và cách mạng” về
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, có thể thấy rằng có một gạch
nối rất nhất quán giữa V.I.Lênin với Hồ Chí Minh, Cương lĩnh (1991) hay Văn kiện
Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều đó cho thấy mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
nói riêng, của chủ nghĩa cộng sản nói chung có thể được thể hiện ra ở rất nhiều
thuộc tính, thêm nữa, phần lớn các thuộc tính ấy đều được nêu ra dưới dạng dự
báo, cho nên việc liệt kê các thuộc tính ấy ở các tác giả khác nhau có những
khác nhau, kể cả ở các tác gia kinh điển. Điều đó khiến cho nhu cầu tiếp cận chủ
nghĩa xã hội từ mục tiêu cơ bản của nó đang dần trở nên bức thiết hơn so với
cách liệt kê các đặc trưng chế độ xã hội mà chúng ta xây dựng./.
PGS,
TS. PHẠM NGỌC ANH
__________________________
(1),
(2), (3) – Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 1995, t.10, tr.271, 159, 191.
(4) – Sđd, t.12, tr.506.
(5) – Sđd, t.8, tr.493-494.
(6) – ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. CTQG, H, 2011, tr. 70.
(4) – Sđd, t.12, tr.506.
(5) – Sđd, t.8, tr.493-494.
(6) – ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. CTQG, H, 2011, tr. 70.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét