TS. Phạm Phúc Vĩnh
1. Đặt vấn đề
Kế thừa, phát huy truyền thống yêu nước, đại đoàn kết của
dân tộc ta và kinh nghiệm về tập hợp khối đại đoàn kết dân tộc của Đảng trong
quá trình lãnh đạo Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống Pháp, sau hiệp định
Giơ-ne-vơ, Đảng ta đã thành lập Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam (10/9/1955) để phục vụ công cuộc
xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Riêng ở miền Nam, sau phong trào Đồng khởi, Đảng đã chủ trương thành
lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam để tập hợp và lãnh đạo các
lực lượng yêu nước đấu tranh chống đế quốc Mĩ xâm lược và chính quyền tay sai
của Mĩ.
Từ khi ra đời đến lúc hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, Mặt trận Dân
tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã tiếp tục kế thừa và phát huy truyền thống yêu
nước, đại đoàn kết của dân tộc như thế nào?. Đó là vấn đề mà chúng tôi sẽ trình
bày trong bài viết này.
2. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra
đời từ truyền thống đại đoàn kết của dân tộc và nhu cầu đoàn kết lực lượng của cách
mạng miền Nam
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, tinh
thần yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc đã thấm sâu
vào tư tưởng, tình cảm và tâm hồn người Việt Nam. Đó là nguồn gốc tạo ra sức
mạnh giúp dân tộc Việt Nam vượt qua những thách thức của lịch sử. Hồ Chí Minh
đã tổng kết rằng: “từ
xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết
thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự hiểm nguy, khó
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”[1].
Khi nào khối đại đoàn kết dân tộc được khơi dậy, củng cố và phát huy, Việt
Nam sẽ vượt qua mọi thách thức và ngược lại thì sẽ thất bại. Chân lí đó đã được
chứng minh qua tiến trình lịch sử của dân tộc: nhờ phát huy được sức mạnh đại
đoàn kết dân tộc, nhà Trần đã đánh bại 3 lần xâm lược của giặc Mông – Nguyên,
Lê Lợi đã chiến thắng quân Minh và chính vì “lòng dân không theo”, nên Hồ Quý
Ly đã phải chịu thất bại trước quân Minh xâm lược…
Trong cuộc Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống Pháp, Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy một cách có hiệu quả những bài học kinh
nghiệm lịch sử về phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Nhằm quy tụ
mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, phấn đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc, tự do và
hạnh phúc cho nhân dân, ngày 18/11/1930, Đảng đã thành lập Hội phản đế
đồng minh, sau đó là Mặt trận thống nhất nhân dân Phản
đế (30/10/1936), Mặt trận dân chủ
Đông Dương (6/1938), Mặt trận Việt Minh (19/5/1941), Hội Liên Việt (29/5/1946)
và Mặt trận Liên Việt (03/3/1951). Chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rãi mọi
lực lượng yêu nước, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái
chính trị,… của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo nên sức mạnh để dân tộc ta
giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám (1945) và trong cuộc kháng chiến
chống Pháp (1945 – 1954).
Từ sau
hiệp định Giơ-ne-vơ đến năm 1959, thực hiện chủ trương của Đảng, nhân dân miền
Nam đã kiên trì sử dụng các hình thức đấu tranh hòa bình đòi thi hành hiệp
định, tiến hành hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước và đòi chấm dứt
tình trạng khủng bố, cướp ruộng của nông dân, thực hiện dân chủ. Tuy nhiên,
những yêu cầu hợp pháp, ôn hòa của nhân dân miền Nam đã được chính quyền Sài
Gòn trả lời bằng những chiến dịch khủng bố đẫm máu. Chính sách khủng bố của
chính quyền Sài Gòn đã đặt nhân dân Miền Nam vào thế phải vùng lên để tự bảo vệ
sinh mạng và tài sản của mình, giành độc lập cho miền Nam và thống nhất đất nước.
Đầu năm 1959,
Hội nghị 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thông qua nghị quyết chuyển
chiến lược cách mạng miền Nam từ đấu tranh hòa bình lên có kết hợp sử dụng lực
lượng vũ trang. Chủ trương mới của Đảng đã làm bùng lên cuộc Đồng khởi mãnh liệt, nhân dân miền Nam
vùng lên làm chủ các thôn, làng, ấp, bản, vùng giải phóng được mở rộng nhanh
chóng. Cách mạng miền Nam đã chuyển sang một giai
đoạn mới với thế và lực được nâng lên một bình độ cao hơn.
Bên
cạnh phong trào đấu tranh duới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, phong
trào đấu tranh hòa bình chống Mĩ và chính quyền Sài Gòn của các lực lượng yêu
nước tiến bộ khác như các nhân sĩ, trí thức, học sinh, sinh viên và phụ nữ, giai
cấp tư sản dân tộc, các vị chức sắc, tu sĩ tiến bộ trong các tôn giáo diễn ra
khá mạnh mẽ ở Sài Gòn và các đô thị lớn khắp miền Nam.
Ngoài
ra, một bộ phận trong lực lượng vũ trang của các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo và
lực lượng Bình Xuyên lúc bấy giờ cũng quay trở lại chống chính quyền Sài Gòn;
trong nội bộ chính quyền Sài Gòn cũng đã có sự phân hóa, nhiều nhân viên và sĩ
quan quân đội Sài Gòn cũng không đồng tình với chính sách của Ngô Đình Diệm, tiêu
biểu là cuộc đảo chính ngày 11/11/1960 của Nguyễn Chánh Thi.
Có thể
nói, sau phong trào Đồng khởi, các lực lượng yêu nước chống Mĩ và chính quyền
Sài Gòn phát triển đa dạng, nhanh chóng và mạnh mẽ song vẫn phân tán. Các lực
lượng trên tuy có khác nhau về đường lối, phương pháp đấu tranh, nhưng tất cả
đều có một điểm chung là lòng yêu nước thiết tha, mong muốn nước nhà được giải phóng,
độc lập, tự do và thống nhất. Nếu bỏ qua những điểm khác biệt nhỏ, đặt mục tiêu
độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, dân chủ và hòa bình lên hàng đầu, thì tất
cả các lực lượng này sẽ trở thành một khối đoàn kết to lớn, không sức mạnh nào
có thể địch nổi. Nếu có một tổ chức công khai để tập
hợp tất cả các lực lượng yêu nước ở miền Nam dưới một ngọn cờ duy nhất, thì sẽ tạo
nên được sức mạnh to lớn để đánh bại đế quốc Mĩ, giải phóng miền Nam và thống
nhất đất nước.
Phát
huy truyền thống yêu nước, đoàn kết của của tổ tiên và kinh nghiệm tập hợp khối
đại đoàn kết dân tộc của Đảng trong Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống
Pháp, đặc biệt là để đáp ứng nhu cầu cấp thiết của thực tiễn đấu tranh cách
mạng ở miền Nam, Đảng ta đã chủ trương thành lập một mặt trận dân tộc thống
nhất ở miền Nam nhằm tập hợp tất cả các tổ chức, đoàn thể, cá nhân yêu nước phục
vụ cho cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược
và chính quyền Sài Gòn tay sai của Mĩ, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Ngày
20/12/1960, tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành thuộc
vùng giải phóng Tây Ninh (nay thuộc xã Tân Lập, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh),
đại biểu các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo và các đảng phái đã họp đại
hội thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Chương trình của
Mặt trận khẳng định: “Phải hòa bình! Phải độc lập! Phải dân chủ! Phải cơm no,
áo ấm! Phải hòa bình, thống nhất Tổ quốc! Đó là nguyện vọng thiết tha, cấp bách
nhất của chúng ta. Nguyện vọng đó đã trở thành ý chí sắt đá, sức mạnh phi
thường thúc đẩy đồng bào ta, phải đoàn kết lại, phải kiên quyết đứng lên đấu
tranh đánh đổ ách thống trị tàn bạo của đế quốc Mĩ và bọn tay sai để cứu nước
nhà”[2].
Sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là một tất yếu, là kết quả của sự kết hợp giữa truyền thống yêu nước, đoàn
kết của dân tộc Việt Nam với thực tế nhu cầu đấu tranh cách mạng ở miền Nam
Việt Nam.
3.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam phát huy truyền thống đại đoàn
kết của dân tộc
Thực
hiện đại đoàn kết dân tộc, tập hợp tất cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân,
các dân tộc, tôn giáo và nhân sĩ yêu nước tán thành hòa bình, trung lập, vì lợi
ích tối cao của Tổ quốc để cùng nhau phấn đấu cho độc lập, dân chủ, hòa bình ở
miền Nam Việt Nam và thống nhất đất nước là chủ trương nhất quán của Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam kể từ khi ra đời cho đến khi hợp nhất với Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam (04/2/1977). Chương trình của Mặt trận đã xác định: “Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chủ trương đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân
dân, các giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo, các
nhân sĩ yêu nước miền Nam Việt Nam, không phân biệt xu hướng chính trị để đấu
tranh đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mĩ và tập đoàn tay sai của Mĩ ở miền
Nam Việt Nam, thực hiện: Độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hòa bình, trung
lập ở miền Nam, tiến tới hòa bình, thống nhất tổ quốc”[3].
Hay
trong bài trả lời câu hỏi: Mặt trận Dân
tộc Giải phóng miền Nam đại diện cho ai? của phóng viên báo L’Humanite’
ngày 20/7/1964, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ cũng khẳng định: “Ở miền Nam Việt Nam,
chỉ có một nhóm rất ít người cam tâm làm tay sai cho đế quốc Mĩ để đối lấy đô
la của chúng, còn tất cả nhân dân miền Nam đều thiết tha yêu nước, mong muốn
nước nhà được giải phóng, độc lập, tự do. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam bao gồm tất cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn
giáo và nhân sĩ yêu nước tán thành hòa bình, trung lập” [4].
Ngoài
ra, Mặt trận còn chủ trương sẵn sàng đón nhận cả những sĩ quan, binh lính, nhân
viên của chế độ Sài Gòn đã bỏ hàng ngũ địch, trở về với nhân dân, tranh thủ, thuyết
phục và luôn để ngỏ khả năng hợp tác với cả những lực lượng không tán thành
chương trình của Mặt trận (nhưng có cùng chủ trương chống Mĩ – Diệm với Mặt
trận). Trong bài trả lời câu hỏi về thái độ của Mặt trận đối với những người
ngoài mặt trận ở miền Nam Việt Nam, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ viết: “có những phe
phái, những nhóm trong các tổ chức chính trị khác, trong các tôn giáo, trong
binh lính và nhân viên ngụy quyền miền Nam, tuy chưa hoàn toàn tán thành chương
trình của Mặt trận, nhưng đã liên hiệp hành đồng với Mặt trận. Chúng tôi biết
rõ hiện nay có nhiều người vì lẽ này hay lẽ khác chưa tham gia Mặt trận, nhưng
trong những hoàn cảnh thuận lợi nào đó họ sẽ gia nhập Mặt trận, hoặc liên hiệp
hành động chặt chẽ với Mặt trận. Đối với những người ngoài Mặt trận hiện đang ở
trong nước hoặc ở ngoài nước, nhưng tán thành hòa bình, trung lập, vì lợi ích
tối cao Tổ quốc. Mặt trận sẵn sàng bắt tay với họ để cùng nhau phấn đấu cho độc
lập, dân chủ, hòa bình, trung lập ở miền Nam Việt Nam”[5].
Trong
bối cảnh đất nước bị mất độc lập, chủ quyền, bị kẻ thù chà đạp, quyền lợi chung
nhất của tất cả những người Việt Nam yêu nước giờ đây chính là độc lập dân tộc,
thống nhất tổ quốc, hòa bình và dân chủ. Và đó cũng chính là lợi ích cao nhất,
vượt lên trên cả lợi ích cá nhân, lợi ích giai cấp và lợi ích tôn giáo. Chủ
trương đoàn kết rộng rãi mọi lực lượng yêu nước, đấu tranh vì hòa bình, độc
lập, cải thiện dân sinh, dân chủ và trung lập ở miền Nam, tiến tới thống nhất
tổ quốc của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đã đáp ứng được quyền lợi cao
nhất và nguyện vọng thiết tha, cấp bách nhất của tất cả những người Việt Nam
yêu nước.
Với chủ
trương đúng đắn trên, Mặt trận đã nhanh chóng trở thành một tổ chức chính trị
lớn mạnh, và là trung tâm đoàn kết mọi lực lượng yêu nước ở miền Nam Việt Nam với
nhiều chính đảng và tổ chức đoàn thể như: Đảng nhân dân cách mạng miền Nam đại
diện cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động miền Nam Việt Nam, Đảng Dân
chủ miền Nam Việt Nam đại diện cho giới trí thức và những nhà kinh doanh công
thương nghiệp, Đảng xã hội cấp tiến đại diện cho giới trí thức yêu nước và tiến
bộ; Hội lao động giải phóng, Hội nông dân giải phóng, Hội liên hiệp thanh niên
giải phóng, Hội liên hiệp phụ nữ giải phóng, Hội liên hiệp sinh viên, học sinh
giải phóng, Hội văn nghệ giải phóng, Hội nhà báo yêu nước và dân chủ, Hội nhà
giáo yêu nước, Hội những người kháng chiến cũ, Hội những người công giáo kính
Chúa yêu nước, Hội Lục Hòa phật tử miền Nam và một số Nhóm yêu nước trong đạo
Cao đài, Hòa hảo, Phong trào tự trị Tây Nguyên. Mặt trận còn là nơi quy tụ của nhiều
cá nhân xuất thân từ nhân viên trong quân đội, Quốc hội và chính quyền Sài Gòn,
Việt kiều yêu nước, và cả những người chỉ có những yêu sách nhân đạo, yêu sách
lành mạnh hóa xã hội, thậm chí một bộ phận trong “lực lượng thứ ba” sau hiệp
định Pa-ri cũng dần dần ngã hẳn về phía Mặt trận.
Khối
đại đoàn kết dân tộc được tập hợp dưới ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam thực sự là một nguồn lực to lớn, không ngừng tăng lên và trở
thành sức mạnh vô địch, bảo đảm cho cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Sau đại
thắng Mùa xuân năm 1975, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tiếp tục khẳng
định: “chính sách trước sau như một của Chính phủ Cách mạng là thực hiện đại
đoàn kết toàn dân, thực hiện hòa hợp dân tộc, nghiêm cấm mọi hành động gây chia
rẽ, thù hằn, nghi kị trong nội bộ nhân dân và giữa các dân tộc” [6].
Đến đầu năm 1977, hai miền Nam – Bắc đã thống nhất cả về lãnh thổ lẫn nhà nước,
một yêu cầu mới đặt ra là cần phải thống nhất toàn bộ lực lượng yêu nước trên
toàn quốc thành một khối đoàn kết mới, chặt chẽ hơn, rộng rãi hơn để phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới. Tại Đại hội Mặt trận Dân
tộc thống nhất Việt Nam (từ 31/1 đến 4/2/1977), Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam cùng với Liên minh các lực lượng
dân tộc, dân chủ và hòa bình đã hòa mình vào Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
4.
Kết luận
Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời trên cơ sở nhu cầu của thực
tiễn đấu tranh cách mạng ở miền Nam và kế thừa truyền thống yêu nước, đại đoàn
kết của dân tộc. Trong 17 năm tồn tại, trong đó đặc biệt là 15 năm kháng chiến
chống Mĩ cứu nước, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đã liên tục giương cao
ngọn cờ dân tộc, nhờ vậy đã động viên được một cách cao nhất tinh thần yêu nước
ở mọi tầng lớp nhân dân, đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết được, tạo ra
khối đại đoàn kết dân tộc vững chắc. Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc
dưới ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam do Đảng lãnh đạo cộng với
sự chi viện của miền Bắc và sự ủng hộ của bè bạn quốc tế đã tạo nên sức mạnh
tổng hợp to lớn đưa sự nghiệp cách mạng miền Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Thắng
lợi này một lần nữa khẳng định sức mạnh to lớn của truyền thống đại đoàn kết
của dân tộc Việt Nam và đồng thời thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng của
Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Trong bối cảnh
đất nước đang tiến hành công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập với thế giới, những bài học kinh nghiệm về việc xây dựng, phát
huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong lịch sử dân tộc nói chung và trong
kháng chiến chống Mĩ nói riêng cần phải được kế thừa và phát huy một cách có
hiệu quả để tạo ra nội lực mạnh mẽ, làm nền tảng vững chắc cho việc tranh thủ có
hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, đưa đất nước phát triển ổn định và bền vững.
Tài liệu tham khảo
1. Đại tướng Lê Văn Dũng (2010), Đại đoàn kết dân tộc - nguồn sức mạnh vô địch bảo đảm thắng lợi cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, http://www.tuyengiao.vn/home/tutuong/lyluanthuctientutuong/2010/4/1972
2. Trần Bạch Đằng (Chủ biên) (1993),
Chung một bóng cờ (Về Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam), Nxb CTQG, Hà Nội.
3. Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam (1961), Nxb Sự Thật, HN.
4. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 6.
5. Nguyễn Hữu Thọ (1996), Găn bó với dân tộc, với nhân dân, với Đảng,
Nxb CTQG, Hà Nội.
6. Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, Lịch sử Mặt trận
dân tộc thống nhất, http://www.mattran.org.vn/Home/GioithieuMT/mtdttt10.htm.
[1] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 6, tr. 171.
[2] Trần Bạch Đằng (Chủ biên) (1993), Chung
một bóng cờ (Về Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam), Nxb CTQG,
Hà Nội, tr. 958.
[3] Trần Bạch Đằng (Chủ biên) (1993), Chung
một bóng cờ (Về Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam), Nxb CTQG,
Hà Nội, tr. 958.
[4] Nguyễn Hữu Thọ (1996), Găn bó với
dân tộc, với nhân dân, với Đảng, Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 96.
[5] Nguyễn Hữu Thọ (1996), Găn bó với
dân tộc, với nhân dân, với Đảng, Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 96.
[6] Nguyễn Hữu Thọ (1996), Găn bó với dân tộc, với nhân dân, với Đảng, Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 158.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét