Phạm Phúc Vĩnh(*)
Tóm tắt:
Tóm tắt: Bài viết phân tích thực trạng cán cân thương mại trong quan hệ kinh tế Việt Nam - Trung Quốc (Việt - Trung) giai đoạn 2001-2011 và những tác động của nó đến sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, từ đó phân tích nguyên nhân, đề xuất những giải pháp để giúp Việt Nam từng bước giảm bớt tình trạng nhập siêu trong quan hệ thương mại với Trung Quốc, đảm bảo sự phát triển ổn định và bền vững của nền kinh tế trong tương lai.
Từ khóa: Cán cân thương mại, quan hệ Việt –
Trung, quan hệ thương mại Việt – Trung.
Keywords:
Trade balance; Vietnam - China relationship; the trade relations of Vietnam and
China.
1. Đặt vấn đề
Cán cân thương
mại trong quan hệ kinh tế Việt Nam từ 2001 đến 2011 là một vấn đề có tính thời
sự nóng bỏng trong quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay. Kể từ khi
bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Trung Quốc (11/1991) đến nay, quan hệ
thương mại giữa hai nước đã đạt được tốc độ phát triển mạnh mẽ, luôn vượt chỉ
tiêu của lãnh đạo hai nước đề ra. Đây là một kết quả tích cực đối với sự phát
triển của mối quan hệ Việt – Trung. Tuy nhiên, kể từ năm 2001 đến nay, trong
quan hệ thương mại Việt – Trung, Việt Nam luôn bị rơi vào tình trạng nhập siêu
với tốc độ ngày càng gia tăng cả về số lượng lẫn tốc độ, bất chấp những biện
pháp can thiệp của lãnh đạo hai nước, làm cho tình trạng thâm hụt cán cân
thương mại của Việt Nam ngày càng lớn, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của
nền kinh tế Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Vấn đề đặt ra đối với Việt Nam là phải hiểu rõ thực trạng, xác định đúng các
nguyên nhân và tìm ra được những giải pháp hiệu quả nhằm giảm nhập siêu từ
Trung Quốc, đảm bảo sự phát triển ổn định và bền vững của nền kinh tế của Việt
Nam trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa.
2. Cán cân thương mại Việt Nam – Trung Quốc giai đoạn từ 2001 đến
2011
2.1. Thực trạng xuất nhập khẩu và cán cân thương mại Việt - Trung
Trong bối cảnh quan hệ kinh tế quốc tế và khu vực phát triển theo xu
hướng hợp tác và hội nhập, cùng với chủ trương thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ thương
mại song phương và những chính sách hỗ trợ, thúc đẩy của Chính phủ hai nước,
quan hệ thương mại Việt – Trung trong thập niên đầu thế kỉ XXI phát triển mạnh
mẽ hơn so với giai đoạn trước. Từ 2001 đến 2011, kim ngạch thương mại hai
chiều tăng trưởng với tốc độ rất nhanh (xem
Bảng 1) và luôn vượt chỉ tiêu mà lãnh đạo hai nước đề ra (đạt 10 tỷ USD năm
2007 và 25 tỷ USD năm 2010).
Tổng kim ngạch thương mại hai chiều Việt
- Trung tăng với tốc độ trung bình hàng năm khoảng 125% với tổng giá trị
kim ngạch thương mại hai chiều rất cao, đưa Trung Quốc trở thành bạn hàng lớn
nhất của Việt Nam trong 8 năm liền. Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ trên đã
đẩy Việt Nam
vào một tình thế hết sức bất lợi. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, nếu như
trong giai đoạn từ 1991 - 2000, Việt Nam luôn xuất siêu sang Trung Quốc (trừ
năm 1998), thì ngược lại trong giai đoạn từ 2001 - 2011, Việt Nam luôn nhập
siêu với quy mô lớn, trung bình là 3.230,47 triệu USD/năm.
Bảng 1: Kim ngạch thương mại Việt – Trung
từ 2000 đến 2011
Đơn vị
tính: Triệu USD
Năm
|
Tổng kim
ngạch XNK
|
VN xuất
khẩu
|
VN nhập
khẩu
|
Cán cân
thương mại VN – TQ
|
Tính theo
giai đoạn
|
||
Giá trị
|
Tỉ lệ so
với năm trước (%)
|
Giá trị
|
Tỉ lệ so
với năm trước (%)
|
||||
2000
|
2937,5
|
-
|
1536,4
|
1401,1
|
+135,3
|
||
2001
|
3023,6
|
102,93
|
1417,4
|
1606,2
|
-188,8
|
139,5
|
Tổng giá
trị nhập siêu của VN từ TQ giai đoạn 2001 – 2011 là: 65693,03 triệu USD
|
2002
|
3677,1
|
121,61
|
1518,3
|
2158,8
|
-640,5
|
339,2
|
|
2003
|
5021,7
|
136,57
|
1883,1
|
3138,6
|
-1255,5
|
196,0
|
|
2004
|
7494,2
|
149,24
|
2899,1
|
4595,1
|
-1696,0
|
135,1
|
|
2005
|
9127,8
|
121,80
|
3228,1
|
5899,7
|
-2671,6
|
157,5
|
|
2006
|
10634,1
|
116,50
|
3242,8
|
7391,3
|
-4148,5
|
155,3
|
|
2007
|
16356,1
|
153,81
|
3646,1
|
12710,0
|
-9063,9
|
218,49
|
|
2008
|
20823,7
|
127,31
|
4850,1
|
15973,6
|
-11123,5
|
122,72
|
|
2009
|
20814,3
|
99,95
|
5403,0
|
15411,3
|
-10008,3
|
89,97
|
|
2010
|
27327,6
|
131,29
|
7308,8
|
20018,8
|
-12710,0
|
126,99
|
|
2011
|
35719,0
|
137,29
|
11126,0
|
24593,0
|
-13467,0
|
105,95
|
Nguồn: Tổng cục thống kê và tính toán của
tác giả
Điểm nổi bật trong quan hệ thương mại Việt – Trung giai đoạn từ 2001 đến
2011 đó là mức độ thâm hụt thương mại của Việt Nam diễn tiến theo hướng ngày
càng tăng nhanh, năm sau cao hơn năm trước. Năm 2000, Việt Nam vẫn còn xuất
siêu sang Trung Quốc, nhưng từ năm 2001 trở đi, Việt Nam bắt đầu nhập siêu từ
Trung Quốc là 188,8 triệu USD, đến năm 2006 đã tăng lên đến 4.148,5 triệu USD.
Sang giai đoạn 2007 – 2011, do thuế nhập khẩu tiếp tục giảm, mức độ thâm hụt
tăng mạnh hơn rất nhiều so với trước: năm 2007, Việt Nam nhập siêu 9.145,8 tỉ
USD và đến 2011 đã tăng lên đến 13.467,00 triệu USD. Những con số thâm hụt trên
chỉ mới tính trên cơ sở giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa, nếu tính cả giá
trị về dịch vụ, ngân hàng, du lịch, viễn thông và doanh số mua điện
hàng năm từ Trung Quốc, thì con số thâm hụt thương mại của Việt Nam trong quan
hệ với Trung Quốc thực tế sẽ cao hơn.
Xét về chủng loại hàng hóa, Việt Nam xuất sang Trung Quốc chủ yếu là
nguyên liệu thô như: dầu thô, quặng khoáng sản, cao su, than đá; nông hải sản
như: rau quả, hải sản khô và tươi sống… có giá trị chiếm khoảng 70% kim ngạch
xuất khẩu. Ngược lại, Trung Quốc xuất sang Việt Nam chủ yếu là những mặt hàng
có giá trị gia tăng cao, đa số là nguyên liệu, phụ liệu, linh kiện tinh chế
phục vụ sản xuất và lắp ráp gia công sản phẩm; dây chuyền công nghệ sản xuất và
cả hàng tiêu dùng chất lượng trung bình.
2.2.
Tác động của thâm hụt thương mại với Trung Quốc đối với kinh tế Việt Nam
Trung bình trong giai đoạn từ 2001 đến 2011, mỗi năm thâm hụt thương mại
với Trung Quốc đã trực tiếp góp phần làm GDP của Việt Nam giảm 5.972,09 triệu
USD[1]. Trong
quan hệ thương mại với Trung Quốc, Việt Nam không chỉ luôn trong tình trạng
nhập siêu với tốc độ cao mà còn quan trọng hơn đó là thâm hụt thương mại với
Trung Quốc chiếm một tỉ lệ khá cao trong tổng giá trị thâm hụt thương mại quốc
tế hàng năm của Việt Nam, đặc biệt là tình trạng này diễn tiến theo hướng ngày
càng gia tăng: năm 2001, thâm hụt thương mại với Trung Quốc chiếm 15,88% tổng
thâm hụt thương mại quốc tế của Việt Nam; năm 2002 tỉ lệ này tăng lên 21,07%,
đến năm 2006 lên đến 81%; trong năm 2007 và 2008 tỉ lệ này có giảm xuống, nhưng
vẫn ở mức trên 60%, song đến năm 2010 chiếm hơn 100% và năm 2011 tăng vọt lên 136,80% (xem Bảng 2). Với tỉ lệ này, rõ ràng
thâm hụt trong quan hệ thương mại với Trung Quốc đang tạo ra sức ép lớn lên cán
cân thương mại quốc tế của Việt Nam và làm gia tăng sức ép đối với nền kinh tế
Việt Nam.
Bảng 2: So sánh giá trị và tỉ lệ thâm hụt
thương mại Việt – Trung so với tổng giá trị thâm hụt thương mại của Việt Nam từ 2001 đến
2011
Đơn vị
tính: Triệu USD
Năm
|
Thâm hụt thương mại
của Việt
|
Thâm hụt thương mại
với TQ
|
Tỉ lệ thâm hụt
thương mại VN – TQ trong tổng giá trị thâm hụt của VN
|
||
Giá trị
|
Tỉ lệ
|
Giá trị
|
Tỉ lệ
|
||
2001
|
1188,7
|
-
|
188,8
|
-
|
15,88%
|
2002
|
3039,5
|
255,70
|
640,5
|
339,25
|
21,07%
|
2003
|
5106,5
|
168,00
|
1255,5
|
196,02
|
24,59%
|
2004
|
5484,0
|
107,39
|
1696,0
|
135,09
|
30,93%
|
2005
|
4314,0
|
78,67
|
2671,6
|
157,52
|
61,93%
|
2006
|
5065,0
|
117,41
|
4148,5
|
155,28
|
81,91%
|
2007
|
14233,3
|
281,01
|
9145,8
|
220,46
|
64,26%
|
2008
|
18028,7
|
126,67
|
11116,4
|
121,55
|
61,66%
|
2009
|
12852,5
|
71,29
|
10008,3
|
90,03
|
77.87%
|
2010
|
12601,9
|
98,10
|
12710,0
|
126,99
|
100.79%
|
2011
|
9844,2
|
78,12
|
13467,0
|
105,9
|
136,80%
|
Nguồn: Tổng cục Thống kê và tính toán của tác giả
Thông thường, đối với những nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, do
đang tiến hành công nghiệp hóa, cần áp dụng những công nghệ máy móc mới và phát
triển hạ tầng, nên nhập khẩu cũng là đòi hỏi của nền kinh tế và thâm hụt cán
cân thương mại là hiện tượng bình thường. Tuy nhiên, nếu xét kĩ về tỉ lệ thâm
hụt thương mại với Trung Quốc trong tổng mức thâm hụt thương mại quốc gia, cơ
cấu hàng hóa trao đổi với Trung Quốc trong giai đoạn từ 2001 đến 2011 và thực
tế về trình độ công nghệ của hàng hóa Trung Quốc nhập khẩu vào Việt Nam thì
tình trạng nhập siêu liên tục và ngày càng gia tăng với khối lượng lớn như trên
là bất hợp lý lớn, đẩy Việt Nam vào thế bất lợi, tác động xấu đến sự phát
triển ổn định và bền vững, đẩy nền kinh tế Việt Nam đứng trước nguy cơ khủng
hoảng[2].
Hiện nay (2011), CAFTA đã chính thức đi vào hoạt động, hàng hóa giá rẻ
của Trung Quốc tiếp tục tràn sang thị trường Việt Nam . Về lí thuyết, Việt Nam sẽ có
cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông sản sang Trung Quốc, nhưng trong
thực tế xuất khẩu các mặt hàng này kể từ khi CAFTA bắt đầu khởi động với
“chương trình thu hoạch sớm” đến nay cho thấy, Việt Nam khó có thể tăng kim
ngạch xuất khẩu các mặt hàng này sang thị trường Trung Quốc do bị cạnh tranh
mạnh bởi hàng hóa cùng loại của các nước ASEAN. Điều đó có nghĩa là nền kinh tế
Việt Nam
sẽ tiếp tục chịu những sức ép lớn do bị cạnh tranh và thâm hụt thương mại trong
quan hệ hợp tác kinh tế với Trung Quốc trong thời gian tới. Việc khắc phục tình
trạng nhập siêu trong quan hệ thương mại với Trung Quốc là một vấn đề lớn đối
với Việt Nam
hiện nay.
3. Nguyên nhân và một số giải pháp điều chỉnh
3.1.
Những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhập siêu của Việt Nam
Các nhân tố tác động đến cán cân thương mại bao gồm: chính sách thương
mại, đầu tư, tỉ giá hối đoái. Trong quan hệ thương mại Việt – Trung, tình trạng
nhập siêu với tốc độ lớn và ngày càng gia tăng của Việt Nam từ 2001 đến 2011 là
do các nguyên nhân chính sau:
Thứ nhất, các ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam còn kém
phát triển nên các ngành hàng chế biến xuất khẩu còn phụ thuộc nặng nề vào
nguồn nguyên liệu, phụ kiện của nước ngoài. Trung Quốc có các ngành công nghiệp
phụ trợ phát triển và có cơ cấu sản xuất giống Việt Nam
nên nhiều ngành sản xuất của Việt Nam phải nhập nguyên liệu, phụ kiện
của Trung Quốc. Chẳng hạn, ngành may xuất khẩu của Việt Nam phải nhập vải và
nguyên phụ liệu ngành dệt may từ Trung Quốc với giá trị ngày càng lớn: năm
2001: 47 triệu USD, năm 2003: 320,1 triệu USD, năm 2004: 464 triệu USD, năm
2005: 661,2 triệu USD, năm 2006: 895,6 triệu USD[4; tr. 45], năm 2008: 2.466,251
triệu USD, năm 2009: 3.121,175 triệu USD[5] và năm 2010 là 4.952,575 triệu USD[10].
Thứ hai, nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kì đầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, lợi thế của Việt Nam là lao động rẻ, các doanh nghiệp
ít vốn, do đó thiết bị, máy móc, công nghệ của Trung Quốc có trình độ trung
bình, giá cả thấp phù hợp với điều kiện và khả năng của các nhà đầu tư Việt
Nam. Số liệu thống kê cho thấy, tổng giá trị nhập khẩu máy móc, thiết bị, phụ
tùng từ Trung Quốc qua các năm là: 2001: 219,4 triệu USD, 2002: 347,9 triệu
USD, 2003: 446,8 triệu USD, 2004: 607,1 triệu USD, 2005: 817,6 triệu USD, 2006:
1200,1 triệu USD[4; tr. 45], năm 2008: 4.430,286 triệu USD, năm 2009: 5.144,194
triệu USD[5] và năm 2010 là 7.010,472 triệu USD[10].
Thứ ba, các ngành sản xuất hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu của
Việt Nam chưa đủ sức đáp ứng thị trường trong nước cả về chất lượng lẫn giá cả
nên bị hàng tiêu dùng chất lượng trung bình, giá rẻ của Trung Quốc cạnh tranh
mạnh, làm gia tăng nhập khẩu hàng tiêu dùng từ Trung Quốc sang Việt Nam.
Thứ tư, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chủ yếu là hàng
nông sản, khoáng sản thô, có giá trị gia tăng thấp nên khối lượng xuất khẩu tuy
rất lớn nhưng giá trị không cao. Các sản phẩm chế tạo của Việt Nam thường trình độ công nghệ lạc hậu hơn Trung
Quốc (trừ một số mặt hàng của các tập đoàn kinh tế toàn cầu sản xuất tại Việt Nam ) nên khó có
thể đẩy mạnh và nâng cao giá trị hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc.
Xét về chủng loại hàng hóa, Việt Nam xuất sang Trung Quốc chủ yếu là nguyên,
nhiên liệu thô như: dầu thô, than đá, cao su; nông hải sản như: rau quả, hải
sản khô và tươi sống, lại bị cạnh tranh gay gắt với các nhóm sản phẩm cùng loại
của các nước ASEAN trên thị trường Trung Quốc, các mặt hàng này chiếm khoảng
70% giá trị kim ngạch xuất khẩu.
3.2. Một
số giải pháp điều chỉnh
Thứ nhất, cần có những chính sách khuyến khích phát triển sản
xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu từ Trung Quốc và nâng cao giá trị hàng xuất
khẩu sang Trung Quốc. Đây là giải pháp quan trọng nhất để nâng cao khả năng
cạnh tranh của hàng xuất khẩu và cải thiện cán cân thương mại với Trung Quốc,
cụ thể là:
Việt Nam cần khai thác những thuận lợi của bối cảnh quốc tế và khu vực,
đẩy mạnh mở cửa kinh tế đối ngoại, tranh thủ các nguồn viện trợ phát triển và
thu hút các dự án đầu tư trực tiếp của các nước công nghiệp phát triển có công
nghệ tiên tiến (kể cả Trung Quốc), để phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ
phục vụ cho các ngành sản xuất mà hiện nay Việt Nam đang nhập khẩu nhiều từ Trung
Quốc như dệt may, giày da,...
Chính phủ cần phải có những chính sách phát triển các ngành sản xuất hàng
tiêu dùng thiết yếu, nhiên liệu, phân bón, sắt thép, hóa chất, linh kiện điện
tử, máy tính, để từng bước thay thế nhập khẩu từ Trung Quốc, và hiện đại hóa
các ngành công nghiệp chế biến để hạn chế xuất khẩu thô, nâng cao giá trị các
mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam sang Trung Quốc.
Trong thời gian qua, nhờ thu hút được đầu tư nước ngoài và phát triển sản
xuất trong nước, Việt Nam đã giảm nhập khẩu nhiều loại hàng hóa Trung Quốc như:
bia Vạn Lực, xe gắn máy, phân bón của Trung Quốc và khi nhà máy lọc dầu Dung
Quốc đi vào hoạt động, Việt Nam cũng sẽ giảm nhập khẩu xăng dầu từ Trung Quốc.
Thứ hai, góp phần lớn nhất trong tổng giá trị thâm hụt thương
mại của Việt Nam chính là việc nhập khẩu các máy móc, công nghệ của Trung Quốc.
Đối với việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, phụ tùng có trình độ công nghệ trung
bình của Trung Quốc trước mắt là phù hợp với lợi thế nguồn lao động, vốn của
Việt Nam. Tuy nhiên về lâu dài, Việt Nam cần phải nhanh chóng chuyển
sang phát triển các ngành sản xuất có trình độ công nghệ cao để đảm bảo sức
cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu cũng như tiêu thụ nội địa.
Việt Nam cần thực hiện quyết liệt chính sách hạn chế nhập khẩu công nghệ
cũ, lạc hậu và gây ô nhiễm môi trường, đồng thời có những chính sách ưu đãi,
hỗ trợ có hiệu quả để khuyến khích các nhà đầu tư nhập khẩu máy móc,
thiết bị từ các nước có trình độ công nghệ cao như Nhật Bản, Tây Âu,
Hoa Kì để chuyển hướng nhập khẩu máy móc công nghệ ra khỏi thị trường Trung
Quốc. Đối với các dự án ODA, Việt Nam không nên đề xuất những dự án
đòi hỏi công nghệ hiện đại mà Trung Quốc không có ưu thế. Bằng cách này, Việt
Nam vừa giảm được nhập siêu từ Trung Quốc tức thời, vừa hiện đại hóa được nền
sản xuất, từ đó có thể phát triển sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu từ Trung
Quốc và nâng cao giá trị hàng xuất khẩu sang Trung Quốc để giảm nhập siêu về
lâu dài.
4. Kết luận
Trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc từ 2001 đến 2011,
vấn đề nhập siêu lớn, liên tục và ngày càng gia tăng của Việt Nam là một thực
tế đang diễn ra và chưa có dấu hiệu dừng lại. Mức thâm hụt thương mại với Trung
Quốc chiếm một tỉ trọng rất lớn trong rổ nhập siêu hàng năm của Việt Nam và
đang tác động tiêu cực đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát
triển ổn định, bền vững của nền kinh tế Việt Nam. Năm 2015, CAFTA sẽ có hiệu
lực đầy đủ đối với Việt Nam, thuế suất đối với nhiều loại hàng hóa Trung Quốc
nhập khẩu vào Việt Nam sẽ giảm xuống 0%, sức ép nhập siêu vì thế cũng gia tăng
hơn nữa.
Vấn đề đặt ra hiện nay đối với Việt Nam đó là tập trung thực hiện có hiệu
quả các giải pháp nhằm sớm hiện đại hóa nền sản xuất trong nước để thay thế
hàng nhập khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu, đồng thời nâng cao chất lượng và giá trị
hàng xuất khẩu để giảm sự chênh lệch cán cân thương mại trong quan hệ với Trung
Quốc, đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Công
thương (2008), Thương mại Việt Nam – Trung
Quốc, NXBLĐ, Hà Nội.
2. Thu Hà (2006),
“Trung Quốc – điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế”, Tạp chí nghiên cứu
Đông Bắc Á, Số 8(68), trang 3 – 4.
3. Phạm Đình
Hàn (2001), Những yếu tố cấu thành chỉ tiêu GDP và các giác độ nghiên cứu khác nhau, http://vienkhoahoc.thongke.gov.vn/
4. Doãn Công
Khánh (2008), “Quan hệ thương mại Việt Nam – Trung Quốc: thực tiễn và
những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Nghiên cứu
Trung Quốc, Số 4(83), trang 41 – 51.
5. Kim ngạch song phương Việt Nam – Trung Quốc năm 2008, 2009, Nguồn: http://www.ttnn.com.vn/nuoc-lanh-tho/52/kim-ngach-xuat-nhap-khau/25625/tong-kim-ngach-xuat-nhap-khau-song-phuong-giua-viet-nam-va-trung-quoc-trong-nam-2009.aspx
6. PGS,TS.
Nguyễn Văn Lịch (Chủ biên) (2006), Cán
cân thương mại trong sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam , Nxb Lao Động – Xã hội, Hà
Nội.
7. Phạm Văn Linh
(2001), Các khu kinh tế cửa khẩu biên giới Việt – Trung và tác động của nó tới sự
phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam , Nxb
CTQG, Hà Nội.
8. Nguyễn Thị Mơ
(2001), “Quan hệ Việt Nam
– Trung Quốc trên lĩnh vực ngoại thương: nhìn lại 10 năm và triển vọng”, Tạp
chí Nghiên cứu Trung Quốc, Số 6(40), trang 36 – 43.
9. Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê các năm: 1992, 1993, 1994, 1995, 1996, 1997, 1998,
1999, 2000, 2001, 2002, 2003, 2004, 2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010, Nxb
Thống kê, Hà Nội.
10. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu song phương
giữa Việt Nam và Trung Quốc trong năm 2010, Nguồn: http://www.vinanet.com.vn/tin-thi-truong-hang-hoa-viet-nam.gplist.294.gpopen.188094.gpside.1.gpnewtitle.tong-kim-ngach-xuat-nhap-khau-song-phuong-giua-viet-nam-va-trung-quoc.asmx/
(*) TS, Giảng
viên Trường Đại học Sài Gòn.
[1] Cán cân thương mại sẽ góp phần tác động trực tiếp đến
tình trạng tăng hay giảm của tổng giá trị sản phẩm quốc nội - GDP (Gross Domestic Product). Hiện nay, có
nhiều phương pháp tính chỉ số GDP khác nhau (nhưng đều cho kết quả giống nhau).
Nếu căn cứ vào khía cạnh chi tiêu: GDP = tiêu dùng + chi tiêu đầu tư + chi tiêu
của chính phủ + (tổng kim ngạch xuất khẩu – tổng kim ngạch nhập khẩu), thì cán
cân thương mại sẽ góp phần quyết định trạng thái tăng hay giảm của GDP. Hay nói
cách khác, cán cân thương mại sẽ góp phần tác động trực tiếp đến chỉ số GDP.
[2]
Trong bài giảng chuyên đề “Nhận
dạng nguyên nhân khủng hoảng kinh tế Mỹ 2008 - 2009” tại Học viện Ngoại
giao chiều 14/12/2009, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân chỉ ra rằng thâm hụt
thương mại liên tục và gia tăng là một trong bốn yếu tố dẫn đến khủng hoảng của
nền kinh tế Mỹ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét