Phạm
Phúc Vĩnh(*)
1.
Đặt vấn đề
Trong
quá trình đàm phán tại Hội nghị Genève, đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ
cộng hoà đã đấu tranh quyết liệt nhằm chống lại sự dàn xếp của các nước lớn để
bảo vệ độc lập dân tộc và thống nhất đất nước của nhân dân Đông Dương. Ngày
21/7/1954, Hiệp định Genève về Đông Dương được ký kết, đánh dấu sự kết thúc chiến
tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương, đáp ứng nguyện vọng hoà bình của nhân dân
Việt Nam và nhân dân thế giới.
Trong
quá trình đàm phán tại Hội nghị Genève, việc xác định giới tuyến quân sự tạm thời
và phân chia khu vực tập kết chuyển quân ở Việt Nam là vấn đề gay cấn nhất và
khó tìm được tiếng nói chung giữa Việt Nam và Pháp cùng các nước liên quan. Tuy
nhiên cuối cùng, Việt Nam phải chấp nhận nhượng bộ, lấy Vĩ tuyến 17 làm ranh giới
quân sự tạm thời và phân chia khu vực tập kết chuyển quân chứ không phải vĩ tuyến
13 hay 14 theo phương án đấu tranh của Việt Nam. Tại sao Việt Nam có ưu thế lớn
trên chiến trường, nhưng lại phải chấp nhận kết quả hạn chế như vậy?. Đó là vấn
đề được nhiều nhà sử học quan tâm nghiên cứu.
Bài
viết này sẽ phục dựng lại quá trình đàm phán về vấn đề giới tuyến quân sự tạm
thời tại Hội nghị Genève giữa Việt Nam và Pháp cùng các nước liên quan để thấy
được tính phức tạp của quá trình đấu tranh ngoại giao của Việt Nam trước sự thỏa
hiệp giữa các nước lớn với nhau nhằm phục vụ cho những mục tiêu chiến lược khác
nhau của họ và từ đó cho thấy được rằng, những gì Việt Nam phải chấp nhận tại Hội
nghị Genève là điều đáng tiếc, nhưng khó có thể thay đổi được.
2.
Quan điểm của Việt Nam và Pháp về vấn đề tập kết chuyển quân
Ngày
26/4/1954, các nước lớn gồm: Mĩ, Liên Xô, Anh, Pháp và Trung Quốc đã khai mạc Hội
nghị Genève để bàn về các vấn đề tranh chấp trên thế giới, trong đó Đông Dương
chỉ là một nội dung trong chương trình nghị sự. Trong phiên khai mạc, các nước
nhỏ có quyền lợi liên quan đều không được mời dự, đến ngày 02/5/1954, theo đề
nghị của Liên Xô, Hội nghị đã mời thêm các bên liên quan trong cuộc chiến tranh
Đông Dương (Việt Nam DCCH, Chính phủ Bảo Đại, Lào, Campuchia) cùng tham dự.
Ngày 8/5/1954, phái đoàn ngoại giao của Việt Nam dân chủ cộng hòa do Phó Thủ tướng
Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn đã chính thức tham dự Hội nghị.
Trong
quá trình đàm phán tại Hội nghị Genève, vấn đề tập kết và chuyển quân là một
yêu cầu tất yếu khi hiệp định đình chỉ chiến sự được kí kết. Trong giai đoạn đầu
của Hội nghị Genève (từ ngày 08/5 đến ngày 19/6/1954), các bên tham gia Hội
nghị đã trình bày lập trường của mình về vấn đề kết thúc chiến tranh và lập lại
hòa bình ở Đông Dương, đồng thời vấn đề vấn đề tập kết chuyển quân cũng được cả
hai bên Việt Nam và Pháp đề cập đến. Trong giải pháp 5 điểm của phái đoàn Pháp
trình bày tại Hội nghị vào ngày 8/5/1954 đã xác định là hai bên sẽ “tập kết
quân đội hai bên vào các vùng quy định”[1]
và trong giải pháp 8 điểm của phái đoàn Việt Nam trình bày tại Hội nghị vào
ngày 10/5/1954 cũng xác định là sẽ “Kí một hiệp định về rút quân đội nước ngoài
ra khỏi Việt Nam, Campuchia và Lào trong thời hạn do các bên tham chiến ấn định.
Trước khi rút quân, đạt thỏa thuận về nơi đóng quân của lực lượng Pháp hay Việt
Nam trong một số khu vực hạn chế”[2].
Tuy
nhiên, giữa Việt Nam và Pháp cùng với các nước liên quan vẫn chưa có sự thống
nhất về phương án tập kết chuyển quân là vạch một giới tuyến quân sự tạm thời
giữa hai miền Nam - Bắc hay là xác định một số vùng tập kết quân sự cho cả hai
bên (Việt Nam và Pháp).
3.
Quá trình đàm phán về vấn đề giới tuyến quân sự tạm thời
Trong
cuộc chiến tranh Đông Dương, Liên Xô và Trung Quốc là hai nước đồng minh của Việt
Nam. Kể từ sau chiến tranh Triều Tiên (7/1950), do Mĩ can thiệp sâu hơn vào
Đông Dương, tăng cường viện trợ cho Pháp nhằm kéo dài và mở rộng chiến tranh,
nên Trung Quốc lo sợ Mĩ mở rộng chiến tranh, đe dọa đến hoà bình và an ninh của
Trung Quốc và khu vực Viễn Đông. Vì vậy, trong Hội nghị Genève, Trung Quốc đã
chủ trương sớm giải quyết hoà bình cuộc xung đột ở Đông Dương, tìm ra một giải
pháp giúp Pháp ít nhất là duy trì được một phần chỗ đứng ở Đông Dương, ngăn cản
khả năng Mĩ can thiệp ồ ạt vào khu vực. Đối với Liên Xô, kể từ sau khi Stalin
qua đời, Khrushchev thực hiện chủ trương đối ngoại hoà hoãn với phương Tây,
chính vì vậy, trong quá trình đàm phán, Liên Xô mong muốn đi đến giải pháp hoà
bình nhằm ngăn chặn việc Mĩ có thể mở rộng chiến tranh ở Đông Dương và giảm bớt
tình hình căng thẳng ở Viễn Đông, thúc đẩy xu thế làm dịu tình hình thế giới.
Chính
vì vậy, trong đàm phán tại Genève, khi lập trường của Việt Nam và Pháp có sự
khác biệt lớn dẫn đến quá trình đàm phán diễn ra chậm chạp, thậm chí có lúc rơi
vào tình trạng bế tắc kéo dài, Liên Xô và đặc biệt là Trung Quốc đã tỏ ra lo lắng
về kết cục thất bại của cuộc đàm phán. Trong cuộc họp ba đoàn phía các nước xã
hội chủ nghĩa ngày 15/6/1954, phía Trung Quốc đã thuyết phục phái đoàn Việt Nam
Dân chủ cộng hoà nhượng bộ Pháp.
Ngày
17/6/1954, Quốc hội Pháp bầu Mendès France (thành viên Đảng Xã hội cấp tiến)
làm Thủ tướng chính phủ mới. Ngày 18/6/1954, tại lễ nhậm chức, Mendès France tuyên
bố sẽ giải quyết vấn đề Đông Dương trong thời hạn 1 tháng (đến 20/7/1954), nếu
không nội các sẽ từ chức. Sự biến chuyển đó đã giải tỏa được những lo lắng của
Trung Quốc. Nhằm thúc đẩy Hội nghị, Trung Quốc đã đề nghị với phía Pháp tổ chức
một cuộc gặp giữa Chu Ân Lai và Mendès France. Cuộc hội đàm được tổ chức vào
ngày 23/6/1954 tại Bern (thủ đô Thuỵ Sĩ). Kết quả, Trung - Pháp đã thống nhất: “chia
cắt Việt Nam, hai miền Việt Nam cùng tồn tại hòa bình, giải quyết vấn đề quân sự
trước”[3]
và “đàm phán về vấn đề tập kết cần đi vào bàn cụ thể; vấn đề phân vùng tập kết
giữa hai bên cần giải quyết trước. Hai bên cũng nhất trí thúc đẩy các bên liên
quan của phía mình trong việc giải quyết các vấn đề của Hội nghị”[4].
Sau
khi Trung Quốc và Pháp đã đạt được giải pháp chung cho vấn đề Đông Dương, Hội
nghị Genève bước vào giai đoạn thảo luận trực tiếp giữa phái đoàn Việt Nam và
phái đoàn Pháp[5]
(từ ngày 23/6/1954 trở đi). Trong giai đoạn này, phương án vạch một giới tuyến
quân sự tạm thời giữa hai miền Nam - Bắc Việt Nam để quân đội Pháp rút về phía
Nam và quân đội Việt Nam rút về phía Bắc mới được các bên liên quan khẳng định.
Trong
cuộc gặp gỡ giữa phái đoàn Việt Nam và Pháp ngày 28/6/1954, Trưởng đoàn Việt
Nam Phạm Văn Đồng đã đề xuất lấy vĩ tuyến 13 làm giới tuyến quân sự tạm thời và
phân chia khu vực tập kết chuyển quân ở Việt Nam. Theo U. Bớc-sét thì “trong
tình hình thảm hại của lực lượng Pháp sau thất bại Điện Biên Phủ, và số còn lại
trong những lực lượng tinh nhuệ của họ thì đang bị bao vây ở đồng bằng Sông Hồng
và các nơi khác ở miền Bắc, đó không phải là một đề nghị không phải chăng”[6].
Về
phía Pháp, mặc dù chiến tranh Đông Dương trở thành một gánh nặng về kinh tế và
tâm lý đối với nước Pháp, buộc Pháp phải nhận viện trợ và lệ thuộc Mĩ để kéo
dài và mở rộng cuộc chiến tranh. Khi kế hoạch quân sự Nava bị thất bại, ý chí
thực dân và hy vọng giành thắng lợi bằng quân sự của Pháp bị tiêu tan, họ buộc
phải tới bàn đàm phán để kết thúc chiến tranh. Tuy nhiên, Pháp vẫn có tham vọng
tiếp tục duy trì lợi ích kinh tế và chính trị của mình ở Đông Dương. Chính vì vậy,
việc chấp nhận vĩ tuyến 13 làm giới tuyến quân sự tạm thời là điều Pháp không
muốn và họ kiên trì đòi lấy vĩ tuyến 18 làm giới tuyến quân sự tạm thời nhằm
tách Campuchia khỏi những liên hệ với cách mạng Việt Nam, đồng thời giữ đường số
9 và một vùng biên giới chung giữa Lào với miền Nam Việt Nam nhằm đảm bảo những
lợi ích của Pháp sau này.
Trong
khi các cuộc thương lượng giữa Việt Nam và Pháp đang diễn ra tại Genève, thì tại
Washington (ngày 28/6/1954), Anh và Mĩ đã ra tuyên bố chung, trong đó, thống nhất
đặt ra 7 điều kiện về một thỏa thuận đình chiến ở Việt Nam và Đông Dương, trong
đó “nhấn mạnh điều kiện dành cho phương Tây phần lãnh thổ phía Nam và một vùng ở
đồng bằng Bắc Bộ”[7]
và thoả thuận sẽ thúc đẩy các biện pháp nhằm thành lập một khối phòng thủ ở
Đông Nam Á. Tuyên bố của Anh, Mĩ đã tạo cho Pháp một sự hậu thuẫn để mặc cả
với Việt Nam. Phái đoàn Pháp đã tỏ ra không vội vàng trong việc đi đến một hiệp
nghị khi mà yêu cầu của họ chưa được thỏa mãn và phương án vĩ tuyến 13 của Việt
Nam tiếp tục bị phía Pháp bác bỏ.
Diễn
biến mới này đã khiến Trung Quốc lo ngại về khả năng Mĩ sẽ có cơ hội can thiệp
sâu vào Đông Nam Á. Và Chu Ân Lai đã đi đến quyết định thúc đẩy Hội nghị Genève
kết thúc theo đúng thời hạn mà Thủ tướng Pháp đã đưa ra (20/7/1954) với điều kiện
thương lượng theo phương châm là “phải công bằng hợp lý để cho phía Pháp có thể
chấp nhận được”[8].
Tuy nhiên, tại Genève, trưởng phái đoàn Việt Nam Phạm Văn Đồng vẫn tỏ ra cứng rắn
và kiên trì đấu tranh không khoan nhượng trước những đòi hỏi quá đáng của phái
đoàn Pháp[9],
làm cho quá trình đàm phán diễn ra một cách chậm chạp, không như mong đợi của
Trung Quốc.
Để
thúc đẩy phái đoàn đàm phán của Việt Nam tại Genève thay đổi quan điểm theo hướng
nhượng bộ Pháp, Chu Ân Lai đã trở lại Trung Quốc và hội đàm với Chủ tịch Hồ Chí
Minh tại Liễu Châu từ ngày 03/7 đến ngày 05/7/1954. Trong cuộc hội đàm này, hai
bên đã “nghiên cứu tình hình tiến triển của Hội nghị Genève, trao đổi ý kiến về
vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương và những vấn khác liên quan đến Hội nghị
Genève”[10].
Đặc biệt, trong vấn đề phân vùng tập kết, Chu Ân Lai đã đề xuất quan điểm lấy
vĩ tuyến 16 làm giới tuyến quân sự tạm thời[11] thay vì vĩ tuyến
13 như quan điểm của phái đoàn Việt Nam tại Genève.
Sau
thời kì các trưởng đoàn đàm phán về nước báo cáo và gặp gỡ, trao đổi bên ngoài
hội nghị (từ 20/6 đến 10/7/1954), ngày 10/7/1954, Mendès France trở lại Hội nghị
và đến chiều ngày 12/7/1954, Chu Ân Lai cũng đã có mặt tại Genève.
Ngày
10/7/1954, trong cuộc gặp gỡ giữa phái đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hòa và phái
đoàn Pháp tại Genève, phía Việt Nam đã đề nghị giới tuyến sẽ hạ xuống ở vĩ tuyến
14, nhưng phía Pháp vẫn giữ vững lập trường vĩ tuyến 18, không chấp nhận lùi bước.
Sau đó (13/7/1954), phía Việt Nam tiếp tục nhượng bộ với đề xuất phương án vĩ
tuyến 16. Tuy nhiên, Mendès France vẫn quyết không chấp nhận đề xuất mới của Việt
Nam vì không muốn từ bỏ căn cứ Không quân, Hải quân Đà Nẵng[12] và đường số 9
sang Lào. Trước tình huống đó, Liên Xô đề xuất bổ sung phương án cho phép phía
Pháp có thể tự do đi lại trên đường số 9, nhưng Mendès France cho rằng, để đi lại
an toàn, phía Pháp phải khống chế toàn bộ đường số 9 và hai bên đường và tiếp tục
bảo lưu quan điểm vĩ tuyến 18.
Sáng
ngày 13/7/1954, Mendès France đã đích thân đến gặp Chu Ân Lai tại trụ sở của
phái đoàn Trung Quốc. Tại đây, Chu Ân Lai đã gợi ý phía Pháp nhượng bộ về vấn đề
Việt Nam để đổi lấy sự nhân nhượng nhiều hơn: “Tôi tin là nếu các ngài tiến lên
một bước thì bên kia sẽ đi nhiều bước hơn về phía các ngài”[13]. Chiều ngày
13/7/1954, Mendès France và Ngoại trưởng Anh Eden cùng đáp máy bay trở về Paris
để hội đàm với Ngoại trưởng Mĩ Foster Dulles. Tại cuộc họp ba bên (Anh,
Pháp, Mĩ), Thủ tướng Pháp khẳng định rằng: Pháp chỉ nhận “đường giới tuyến lui
về phía Nam một chút” (so với mốc là vĩ tuyến 18 mà họ đã đề nghị ngày
26/6/1954) - có lẽ theo đường Đồng Hới - Thakhek hoặc hơi quá về phía Nam con
đường đó”[14].
Và ngày hôm sau (14/7/1954), Pháp đã đáp lại gợi ý của Chu Ân Lai bằng một đề
nghị mới: “phía Pháp sẽ chỉ chấp nhận đường giới tuyến ở phía Bắc đường số 9
(khoảng vĩ tuyến 17)”[15]
thay cho đề nghị đường vĩ tuyến 18 trước đây.
Ngày
19/7/1954, Mendès France đến gặp Chu Ân Lai (cùng dự có Eden) và sau đó, với
vai trò trung gian, đại diện của phái đoàn Anh là Caccia đã có cuộc gặp gỡ với đại
diện phái đoàn Trung Quốc là Trương Văn Thiên để thảo luận về vấn đề Việt Nam. Trong
cuộc gặp gỡ này, đại diện phái đoàn Anh đã “thông báo và nhấn mạnh rằng, phía
Pháp nhất quyết đòi đường số 9 và để cho việc sử dụng “an toàn” con đường này,
ông gợi ý đường giới tuyến là “một trong hai con sông” nằm trong khu vực giữa
đường số 9 và vĩ tuyến 18”[16].
Như
vậy, trong các cuộc tiếp xúc và thương lượng trực tiếp với Việt Nam, Pháp luôn
kiên trì bảo vệ quan điểm vĩ tuyến 18. Thông qua các cuộc dàn xếp với các nước
lớn, đặc biệt là Trung Quốc, Pháp đã có sự nhượng bộ nhỏ trong vấn đề xác định
giới tuyến quân sự tạm thời trước khi trở lại đàm phán trực tiếp với Việt Nam.
Ngày
20/7/1954, sau khi phương án “đường giới tuyến ở phía Bắc đường số 9”[17]
về cơ bản đã nhận được sự đồng tình của các nước lớn, Pháp trở lại đàm phán trực
tiếp với Việt Nam. Sau nhiều cuộc thảo luận, cuối cùng phái đoàn Việt Nam đã đi
đến thỏa thuận với Pháp chọn vĩ tuyến 17 làm đường giới tuyến quân sự tạm thời.
Đây là một trong những thỏa thuận quan trọng được thống nhất cuối cùng để đi đến
chính thức kí kết Hiệp định Genève vào ngày 21/7/1954.
4.
Kết luận
Việc
đàm phán để kết thúc chiến tranh ở Việt Nam nói chung và để xác định giới tuyến
quân sự tạm thời ở Việt Nam nói riêng lẽ ra phải là công việc của Việt Nam với
Pháp. Tuy nhiên, do sự chi phối của trật tự thế giới hai cực trong chiến tranh
lạnh và những tính toán vì lợi ích của các nước lớn, nên Hội nghị Genève đã bị
các nước lớn chi phối mạnh mẽ, trong đó đặc biệt là vai trò của Trung Quốc.
Trong
hoàn cảnh đó, quá trình đàm phán để xác định ranh giới quân sự tạm thời và phân
chia khu vực tập kết chuyển quân ở Việt Nam diễn ra gay cấn và kéo dài. Đoàn đại
biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã kiên trì đấu tranh để bảo vệ quyền
lợi của Việt Nam trước sự dàn xếp của các nước lớn. Mặc dù đã có nhiều cố gắng,
nhưng trong vấn đề giới tuyến quân sự tạm thời, Việt Nam phải chấp nhận một kết
quả khiêm tốn đó là lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới quân sự tạm thời để phân chia
khu vực tập kết chuyển quân chứ không phải vĩ tuyến 13, 14 hay 16 như lập trường
ban đầu của Việt Nam, bỏ lại toàn bộ vùng giải phóng khu V và nhiều vùng tự do
phía Nam vĩ tuyến 17 làm vùng tập kết, chuyển quân cho Pháp.
[1] Nguyễn Phúc
Luân (2001), Ngoại giao Việt Nam hiện đại,
vì sự nghiệp giành độc lập, tự do (1945 - 1975), Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 140.
[2] Nguyễn Phúc
Luân (2001), Ngoại giao Việt Nam hiện đại,
vì sự nghiệp giành độc lập, tự do (1945 - 1975), Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 141.
[3] Bộ Ngoại giao
Việt Nam (1979), Sự thật về quan hệ Việt
Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, Nxb Sự Thật, Hà Nội, tr. 28 - 29.
[4] Nguyễn Văn Trí
(2009), “Quan hệ Trung - Pháp trong việc giải quyết vấn đề Đông Dương tại Hội
nghị Geneva năm 1954”, Tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử, Số 6/2009, tr.53.
[5] Từ ngày 24/6/1954 đến ngày 20/7/1954, phái
đoàn Pháp và Việt Nam Dân chủ cộng hòa đàm phán trực tiếp để giải quyết các vấn
đề cụ thể, xoay quanh các vấn đề: quyền tham gia hội nghị của các đại
biểu chính phủ kháng chiến Lào và chính phủ kháng chiến
Campuchia; chọn vĩ tuyến để khẳng định giới tuyến quân sự tạm thời và
thời hạn tổ chức tổng tuyển cử tự do để thống nhất Việt Nam.
[7] Nguyễn Phúc
Luân (2001), Ngoại giao Việt Nam hiện đại,
vì sự nghiệp giành độc lập, tự do (1945 - 1975), Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 144.
[8] Bộ Ngoại giao
Việt Nam (1979), Sự thật về quan hệ Việt
Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, Nxb Sự Thật, Hà Nội, tr. 30.
[9] Đến ngày
10/7/1954, phái đoàn Việt Nam vẫn kiên trì lập trường của mình về vấn đề Việt
Nam, Lào và Campuchia,… định giới tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam là vĩ tuyến
13, tổ chức tổng tuyển cử tự do trong 6 tháng để thống nhất nước nhà[Bộ Ngoại
giao Việt Nam (1979), Sđd, tr. 29].
[10] “Cuộc hội đàm
Việt – Trung có ý nghĩa quan trọng đối với việc lập lại hòa bình ở Đông Dương”,
Báo Nhân Dân, Số 203, ngày 10/7/1954.
[11] Theo Nguyễn Văn
Trí, tại cuộc gặp Hồ Chí Minh ở Liễu Châu từ ngày 3/7 đến ngày 5/7/1954, Trung
Quốc định đường giới tuyến phân chia vùng kiểm soát giữa hai ở Việt Nam tại vĩ
tuyến 17 - gần với đề nghị đặt đường giới tuyến tại vĩ tuyến 18 của phía Pháp
ngày 26/6/1954 [Nguyễn Văn Trí (2009), Sđd,
tr. 54].
Theo Bộ Ngoại
giao Việt Nam thì trong điện văn gởi BCH Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc,
sao gởi BCH Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ngày 30/5/1954, Chu Ân Lai đã đưa
ra phương án lấy vĩ tuyến 16 làm giới tuyến quân sự tạm thời giữa hai miền Nam
– Bắc[Bộ Ngoại giao Việt Nam (1979), Sđd,
tr. 30].
[12] Vĩ tuyến 16 sẽ
đi qua giữa căn cứ Không quân và Hải quân
Pháp tại Đà Nẵng.
[13] Phrăng-xoa
Gioay-ô (1981), Trung Quốc và việc giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ
nhất, Nxb Thông tin lí luận, Hà Nội, tr. 291.
[14] Nguyễn Văn Trí
(2009), “Quan hệ Trung - Pháp trong việc giải quyết vấn đề Đông Dương tại Hội
nghị Geneva năm 1954”, Tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử, Số 6/2009, tr. 54.
[15] Nguyễn Văn Trí
(2009), “Quan hệ Trung - Pháp trong việc giải quyết vấn đề Đông Dương tại Hội
nghị Geneva năm 1954”, Tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử, Số 6/2009, tr. 55.
[16] Nguyễn Văn Trí
(2009), “Quan hệ Trung - Pháp trong việc giải quyết vấn đề Đông Dương tại Hội
nghị Geneva năm 1954”, Tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử, Số 6/2009, tr. 56.
[17] Nguyễn Văn Trí
(2009), “Quan hệ Trung - Pháp trong việc giải quyết vấn đề Đông Dương tại Hội
nghị Geneva năm 1954”, Tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử, Số 6/2009, tr. 55.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét