25 tháng 8, 2012

QUÁ TRÌNH GIÀNH QUYỀN LÃNH ĐẠO TỔNG HỘI SINH VIÊN SÀI GÒN (1966 - 1967)

Phạm Phúc Vĩnh(*)
1. Sự cần thiết phải giành quyền lãnh đạo Tổng hội sinh viên Sài Gòn
Sau năm 1954, để phục vụ cho việc phát triển miền Nam Việt Nam theo con đường tư bản chủ nghĩa, ngoài việc mở rộng quy mô đào tạo của Viện Đại học Sài Gòn (thành lập năm 1957, tiền thân là Viện Đại học Đông Dương thời Pháp thuộc, năm 1955 đổi tên là Viện Đại học Quốc gia Việt Nam, gồm có các phân khoa: Y; Nha; Dược; Sư phạm; Khoa học; Văn khoa; Luật khoa; Kiến trúc), chính quyền Sài Gòn đã cho thành lập thêm nhiều trường đại học mới dưới hai loại hình là công lập và tư thục. Các trường công lập gồm có: Viện Đại học Huế (1957), Viện Đại học Cần Thơ (1966), Học viện quốc gia hành chánh (1958), Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức (thành lập năm 1974, trên cơ sở nâng cấp Trường Kĩ thuật Phú Thọ có từ năm 1957 và một số trường mới thành lập); các trường tư thục bao gồm: Đại học Đà Lạt (1957), Đại học Vạn Hạnh (1964), Đại học Phương Nam (1967), Đại học Hòa Hảo (1970), Đại học Cao Đài (1971) và Đại học Minh Đức (1972).
Sự mở rộng quy mô đào tạo của Viện Đại học Sài Gòn và quá trình ra đời của các viện đại học mới ở miền Nam Việt Nam đã làm gia tăng nhanh chóng số lượng sinh viên, nhất là ở Sài Gòn. Với số lượng đông đảo, có tri thức và nhiệt huyết của tuổi trẻ, sinh viên ở miền Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng dần dần trở thành một lực lượng chính trị quan trọng trong các phong trào yêu nước. Ngay trong những năm đầu sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, sinh viên Sài Gòn đã tham gia nhiều hoạt động đấu tranh chính trị như: biểu tình chống chính quyền Ngô Đình Diệm, đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ; tham gia “phong trào cứu trợ nạn nhân chiến cuộc”(5/1955); tổ chức bãi khóa, xuống đường cùng với các tầng lớp nhân dân khác phản đối đàn áp tôn giáo (1963) và tổ chức cuộc biểu tình của hơn 5.000 học sinh – sinh viên Sài Gòn – Gia Định trước chợ Bến Thành vào ngày 25/8/1963.
Nhận thấy được sức mạnh của phong trào sinh viên Sài Gòn, chính quyền Sài Gòn đã tìm cách kiểm soát phong trào bằng cách thỏa hiệp, mua chuộc và đưa người của mình vào nắm lấy Tổng hội sinh viên Sài Gòn[1]. Trong hai nhiệm kì 1963 – 1964 và 1964 – 1965, Tổng hội sinh viên Sài Gòn do Lê Hữu Bôi và Nguyễn Trọng Nho là thành viên Quốc dân đảng, có khuynh hướng chống Cộng nắm giữ, đến nhiệm kỳ 1965-1966, chức Chủ tịch Tổng hội lại rơi vào tay Tô Lai Chánh – một thủ lĩnh sinh viên thân chính quyền Sài Gòn[2]. Tổng hội sinh viên Sài Gòn hoạt động công khai, hợp pháp, nhưng do bị chính quyền Sài Gòn chi phối, nên hoạt động của Tổng hội từ 1963 đến 1966 khá mờ nhạt, không theo kịp sự phát triển của phong trào sinh viên.
Tuy lãnh đạo Tổng hội bị chính quyền Sài Gòn chi phối, nhưng phong trào đấu tranh của sinh viên Sài Gòn từ 1964 đến 1966 vẫn tiếp tục lên cao và trở thành phong trào đấu tranh chính trị công khai chống chính quyền Sài Gòn và Mĩ rõ nét hơn:
Ngày 2/8/1964, khoảng 4.000 học sinh – sinh viên đã tổ chức cuộc hội thảo vạch trần bộ mặt độc tài phát xít của Nguyễn Khánh. Ngày 21/8/1964, hàng ngàn sinh viên và học sinh tập hợp tại trụ sở Tổng hội số 4 Duy Tân, kéo tới tư dinh tướng Nguyễn Khánh đòi bỏ lệnh giới nghiêm. Trưa 23/8/1964, sinh viên tập trung tại đại học Y khoa hội thảo, rồi kéo đến Đài phát thanh buộc tội Giám đốc Nguyễn Ngọc Linh đưa tin xuyên tạc phong trào đấu tranh của sinh viên, học sinh. Ông Linh phải thoát qua cửa sổ, bỏ trốn. Ngày 25/8/1964, học sinh, sinh viên buộc Nguyễn Khánh trả lời về tình trạng khẩn cấp, về chế độ kiểm duyệt báo chí và lên án sự phi pháp, phản dân chủ của Hiến chương Vũng Tàu, buộc Nguyễn Khánh phải hủy bỏ hiến chương này và từ chức.
Ngay khi mới lên cầm quyền, Trần Văn Hương[3] đã đối mặt với sự phản đối quyết liệt của học sinh, sinh viên Sài Gòn với những cáo buộc như: “Chính phủ Trần Văn Hương đã đàn áp sinh viên một cách dã man, xâm phạm học đường một cách trắng trợn. Chính phủ đã giết chết tự do báo chí” và yêu sách: “Trần Văn Hương từ chức ngay và yêu cầu Quốc trưởng Phan Khắc Sửu dùng quyền của mình để giải tán thành phần nội các Trần Văn Hương”[4]. Đặc biệt, học sinh, sinh viên đã lên án và chống đối quyết liệt chính sách “Quân sự hóa học đường” của Trần Văn Hương với yêu sách rất rõ ràng: “tăng số tuổi được vào đại học là 21 tuổi thay vì 19 tuổi. Điều kiện ưu tú phải được ấn định một cách hợp lý, phù hợp với tình trạng thực tế tại đại học, không thể trở thành một lý do để đẩy đa số con em sinh viên vào con đường lính tráng”[5]. Trước những áp lực từ quần chúng nhân dân (trong đó có sinh viên) và từ các phe phái đối lập trong chính quyền Sài Gòn, Trần Văn Hương buộc phải từ chức.
Sau thất bại của âm mưu thành lập chính phủ dân sự, âm mưu thành lập một chính phủ quân sự với liên minh Thiệu – Kỳ của Mĩ[6] cũng đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của sinh viên trên toàn miền Nam, nhất là ở Sài Gòn. Trong một Bản tin của sinh viên Sài Gòn đã chỉ trích chủ trương chiến tranh của chính quyền Sài Gòn rằng: “Chiến tranh hiện nay không giải quyết được gì cả, không bảo đảm tương lai nào cả mà chỉ đẩy dân tộc ta ngày càng đi sâu vào một cuộc phiêu lưu vô lý nhất, vô nhân đạo nhất bằng cách sát hại lẫn nhau và tiếp tục chiến tranh là đi ngược lại với nguyện vọng của toàn dân”[7].
Những diễn biến của phong trào sinh viên Sài Gòn nói riêng và sinh viên toàn miền Nam nói chung trong giai đoạn này cho thấy, đây là một lực lượng yêu nước hết sức hăng hái, năng động, nếu Đảng tập hợp và lãnh đạo được thì sẽ có một lực lượng chính trị quan trọng có thể hoạt động công khai ngay trong lòng địch. Về vấn đề này, BS. Huỳnh Tấn Mẫm sau này đã cho biết rằng, Đảng ta “cần có một mặt trận, một lực lượng đấu tranh công khai ngay trong lòng địch mà lực lượng đó phải hợp pháp và được chính quyền ở miền Nam thừa nhận. Và cuộc đấu tranh do lực lượng đó khởi xướng phải liên tục. Lực lượng đó chính là đội ngũ sinh viên ở miền Nam”[8]. Và để lãnh đạo phong trào sinh viên Sài Gòn phát triển theo hướng có lợi cho cách mạng, việc cần thiết phải làm lúc này là giành quyền lãnh đạo Tổng hội sinh viên Sài Gòn.
2. Quá trình vận động giành quyền lãnh đạo Tổng hội sinh viên Sài Gòn
Cơ quan cao nhất của Tổng hội sinh viên Sài Gòn là Hội đồng đại diện sinh viên do Chủ tịch Ban chấp hành sinh viên các trường đứng đầu. Ban chấp hành Tổng hội có nhiệm kỳ 1 năm do sinh viên trực tiếp bầu, nhưng cũng có nhiệm kỳ do Ban đại diện các trường thành viên bỏ phiếu. Chính vì vậy, nếu Khu Đoàn muốn giành quyền lãnh đạo Tổng hội thì trước hết phải đưa người vào nắm các Ban đại diện của các phân khoa để ra tranh cử.
Trước bối cảnh Mĩ đưa quân trực tiếp xâm lược nước ta, tháng 4/1965, Khu Đoàn Thanh niên Nhân dân cách mạng khu Sài Gòn – Gia Định[9] đã được thành lập. Thực hiện chủ trương của Đảng, Khu Đoàn đã đưa ra chủ trương: “từng Đoàn ủy và Ban Vận động thanh niên tri thức tranh thủ vị trí công khai của cá nhân tiêu biểu trong phong trào để hình thành các tổ chức thanh niên từng giới…., nắm cơ quan “Học sinh vụ” của Tổng hội sinh viên vừa dựa thế Tổng hội, vừa độc lập hoạt động trong khi Tổng hội sinh viên còn  do bọn phản động và các phe phái khác chi phối. Đoàn ủy sinh viên khẩn trương xây dựng nòng cốt công khai, nắm lấy Ban Đại diện các trường đại học để đẩy mạnh đấu tranh giành quyền lãnh đạo Tổng hội Sinh viên Sài Gòn”[10].
Thực hiện chủ trương trên, Khu Đoàn đã tổ chức đưa những lãnh tụ sinh viên yêu nước tham gia vào Ban đại diện của các phân khoa để chuẩn bị cho việc ra giành quyền lãnh đạo Tổng hội sau này. Tính đến năm 1966, trong số 14 phân khoa của Tổng hội lúc bấy giờ, “nhiều đồng chí của ta đã “lồng khung” vào được các ban đại diện của trường Khoa học, Sư phạm, Văn khoa, Nông Lâm Súc, Y khoa,…”[11]. Sau này, chính quyền Sài Gòn cũng đã ghi nhận rằng: “có 10 ban có lập trường chống Cộng không bền vững nếu không nói là thiên Cộng như Luật khoa, Khoa học, Văn khoa, Dược khoa, Y khoa, Nha khoa, Sư phạm, cao đẳng Nông Lâm Súc, Điện học; 4 Ban chấp hành có lập trường chống Cộng rõ rệt là Công nghệ, Kiến trúc, cao đẳng Công chính và Quốc gia hành chính”[12].
Trước việc Mĩ ồ ạt đưa quân vào miền Nam Việt Nam, học sinh sinh viên khắp miền Nam đã cùng với các tầng lớp nhân dân đấu tranh phản đối Mĩ. Tại sài Gòn, tháng 4/1966, sinh viên trường Y và trường Kĩ thuật Phú Thọ mở hội thảo đòi chủ quyền và hòa bình cho Việt Nam. Đến ngày 24/5/1966, sinh viên Y khoa đã tập hợp tại trụ sở Tổng hội, chất vấn và yêu cầu Tô Lai Chánh phát động một phong trào ủng hộ cuộc đấu tranh ở miền Trung, chống đàn áp gây nội chiến. Chánh lúng túng, hoảng sợ trước yêu cầu trên và bất ngờ tung cửa sổ chạy ra ngoài, sau đó trốn về Cần Thơ.
Sau khi Tô Lai Chánh bỏ trốn, Hội đồng đại diện 14 phân khoa đã nhất trí phế truất Ban chấp hành cũ và tạm thời cử người tạm quyền. Cuộc vận động bầu cử Ban chấp hành mới của Tổng hội sinh viên Sài Gòn bắt đầu diễn ta. Tình huống này đã tạo thời cơ để ta đưa người ra tranh cử để giành quyền lãnh đạo Tổng hội. Vấn đề đặt ra là phải nhanh chóng tạo uy tín cho ứng cử viên của ta đối với sinh viên và tiếp tục vận động và tranh thủ sự ủng hộ của các Ban đại diện sinh viên. Muốn tập hợp và lôi kéo sinh viên đứng về phía ta, không có cách nào nhanh và hiệu quả bằng việc phát động một phong trào đấu tranh công khai và hợp pháp.
Trong khi ta đang cần một lí do thích hợp để phát động phong trào đấu tranh nhằm tập hợp, lôi kéo, tranh thủ sự ủng hộ của sinh viên và các Ban đại diện, phục vụ cho việc tranh cử, giành quyền lãnh đạo Tổng hội thì một cơ hội bất ngờ lại đến. Chính quyền Sài Gòn ra Nghị định đổi trường Y trực thuộc Viện Đại học Sài Gòn thành Trung tâm Y - Nha - Dược trực thuộc Phủ Thủ tướng và bổ nhiệm 5 lãnh đạo mới. Nghị định này đi ngược lại tinh thần tự trị đại học đang được Mĩ và chính quyền Sài Gòn chủ trương áp dụng trong hệ thống giáo dục miền Nam[13]. Ban đại diện sinh viên Y khoa (do Khu Đoàn lãnh đạo) đã nắm lấy cơ hội này để phát động phong trào đấu tranh phản đối chính quyền Sài Gòn.
Trong ngày bàn giao Khoa trưởng, sinh viên Y khoa biểu tình ngồi chặn trước cửa văn phòng Khoa trưởng. Chính quyền Sài Gòn đã điều lực lượng cảnh sát đến đàn áp. Trước tình huống đó, Ban đại diện phân khoa Sư phạm và Khoa học (do Khu Đoàn lãnh đạo) đã hưởng ứng cuộc đấu tranh của sinh viên Y khoa, phát động sinh viên đấu tranh chống xâm phạm quyền tự trị đại học, sau đó phong trào lan rộng ra nhiều trường khác ở Sài Gòn.
Tháng 3/1967, Đại hội sinh viên Sài Gòn đòi tự trị ở bậc đại học đã bầu ra Ban chấp hành Trung ương do Hồ Hữu Nhựt (Chủ tịch Ban đại diện sinh viên Sư phạm) làm chủ tịch, Tổng thư ký là Dương Văn Đầy (sinh viên Y khoa). Đại hội ra tuyên ngôn chủ trương một nền đại học tiến bộ, chống việc can thiệp của chính quyền Sài Gòn vào các khuôn viên đại học. Phong trào có Ban cố vấn gồm khoảng 30 giáo sư, giảng viên, trong đó có viện trưởng Đại học Sài Gòn, Cần Thơ và Ban chấp hành các phân bộ tự trị của phân khoa Khoa học, Sư phạm, Y khoa, Luật khoa, Dược khoa, Trung tâm Kĩ thuật Phú Thọ, cao đẳng Nông Lâm Súc.
Việc nắm bắt cơ hội và phát động phong trào “tự trị đại học” kịp thời đã giúp Khu Đoàn nhanh chóng tập hợp rộng rãi sinh viên của nhiều trường, đưa Hồ Hữu Nhật trở thành người có uy tín cao trong giới sinh viên Sài Gòn cũng như Ban đại diện các phân khoa, hội đủ những điều kiện cơ bản để trở thành ứng cử viên sáng giá cho chức Chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn.
Ngày 30/4/1967, cuộc bầu cử Tổng hội sinh viên Sài Gòn diễn ra tại số 4 Duy Tân giữa hai liên danh là Hồ Hữu Nhựt và Lê Hồng Khanh[14]. Kết quả, Hồ Hữu Nhựt thắng cử với 2/3 số phiếu[15]. Ban chấp hành Tổng hội mới ra mắt ngày 14/5/1967 tại trụ sở của Tổng hội sinh viên Sài Gòn. Từ đây, Tổng hội sinh viên Sài Gòn chính thức do Khu Đoàn lãnh đạo, phong trào đấu tranh công khai của sinh viên Sài Gòn chống Mĩ và chính quyền Việt Nam cộng hòa diễn ra mạnh mẽ, quyết liệt hơn.
3. Kết luận
Trước năm 1965, phong trào đấu tranh công khai của sinh viên Sài Gòn diễn ra sôi động, liên tục và từng bước trở thành một lực lượng chính trị quan trọng trong các phong trào đấu tranh công khai ở Sài Gòn. Năm 1965, Đảng ta chủ trương từng bước nắm lấy quyền lãnh đạo Tổng hội sinh viên Sài Gòn để tập hợp sinh viên, xây dựng lực lượng phục vụ cho các phong trào đấu tranh công khai ở đô thị.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Khu Đoàn Sài Gòn – Gia Định đã tổ chức cài cắm lực lượng của ta vào Ban đại diện của các phân khoa như Sư phạm, Y khoa, Khoa học, Nông – Lâm – Súc,… và đặc biệt là đã nắm lấy cơ hội để phát động phong trào đòi tự trị đại học để tập hợp và vận động sinh viên, nâng cao uy tín của ứng viên Hồ Hữu Nhựt do Đảng đưa ra tham gia tranh cử Chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn. Quyết định nhạy bén đầy sáng tạo đó của Khu Đoàn đã giúp Hồ Hữu Nhựt giành được thắng lợi trong cuộc bầu cử, lên nắm chức Chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn nhiệm kì 1966 – 1967. Thắng lợi này mở đầu cho quá trình nắm quyền lãnh đạo Tổng hội sinh viên Sài Gòn của ta trong 4 khóa liên tiếp sau đó (Hồ Hữu Nhựt 1966 - 1967, Nguyễn Đăng Trừng 1967 - 1968, Nguyễn Văn Quỳ 1968 - 1969 và Huỳnh Tấn Mẫm 1969 - 1970).

Tài liệu tham khảo:

1.    “Bác sĩ Huỳnh Tấn Mẫm: Người đấu tranh cho hạnh phúc”, Báo Bình Dương, http://www.baobinhduong.org.vn, Cập nhật ngày 16/6/2011.

2.   Trần Bạch Đằng (Chủ biên) (1993), Chung một bóng cờ: về Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.

3.   Lê Xuân Khoa (2010), “Giáo dục miền Nam trước 1975: hồi tưởng và nhận định”, Kỉ yếu Đại học Humboldt 200 năm (1810 - 2010), Nxb Tri Thức, Hà Nội.
4.   Nhiều tác giả (1975), Trui rèn trong lửa đỏ (Tập kí sự truyền thống Thành đoàn), Nxb Văn Nghệ Tp. Hồ Chí Minh, tr. 67.
5.   Hồ Hữu Nhựt (2002), Tri thức Sài Gòn – Gia Định 1945 – 1975, Nxb CTQG, HN.
6.   Thành Đoàn Tp. Hồ Chí Minh, Lược sử Thành Đoàn Tp. Hồ Chí Minh, NVHTN, Tp. Hồ Chí Minh.
7.   Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, Phiếu trình Thiếu tướng - Tổng trấn Sài Gòn – Gia Định của Giám đốc Nha cảnh sát quốc gia đô thành Sài Gòn, Số 283/CSQG/P3/M, Ngày 19/1/1965, HS số 29541.
8.   Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, Bản tin số 1 do phân ban sinh viên Khoa học vận động hòa bình ấn hành ngày 17/3/1965.
9.   Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, Phiếu trình Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Cộng hòa của Bộ văn hóa Giáo dục khối Thanh niên học đường, Số 8/M:VHGD/VP, Ngày 13/4/1968, HS số 30218.
10. Phạm Chánh Trực (2001), Lược sử Đoàn và phong trào thanh niên TP. Hồ Chí Minh (1954 – 1975), Nxb Trẻ, TP Hồ chí Minh.



(*) Trường Đại học Sài Gòn
[1] Tổng hội sinh viên Sài Gòn là tổ chức của sinh viên Viện Đại học Đông Dương tại Sài Gòn thời Pháp thuộc. Sau hiệp định Giơ-ne-vơ, Tổng hội sinh viên Sài Gòn tiếp tục tồn tại, nhưng hoạt động mờ nhạt. Tổng hội gồm có 14 phân khoa và trường như sau: Khoa học, Y khoa, Nha khoa, Dược khoa, Sư phạm, Văn khoa, Kiến trúc, Luật, Học viện quốc gia Hành chính, Trường Nông Lâm Súc, Công chánh, Điện học, Hàng hải, Kỹ thuật Phú Thọ.
[2] Tô Lai Chánh là người có uy tín, hoạt động nhiệt thành trong phong trào sinh viên giai đoạn 1963 - 1964. Tuy nhiên sau đó Chánh đã bị Mỹ, Thiệu - Kỳ mua chuộc.
[3] Ngày 25/10/1964, dưới sức ép của Mĩ, Nguyễn Khánh phải rời khỏi chính quyền, Phan Khắc Sửu lên làm Quốc trưởng và Trần Văn Hương làm Thủ tướng.
[4] Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, Phiếu trình Thiếu tướng - Tổng trấn Sài Gòn – Gia Định của Giám đốc Nha cảnh sát quốc gia đô thành Sài Gòn, Số 283/CSQG/P3/M, Ngày 19/01/1965, HS số 29541.
[5] Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, Phiếu trình Thiếu tướng - Tổng trấn Sài Gòn – Gia Định của Giám đốc Nha cảnh sát quốc gia đô thành Sài Gòn, Số 283/CSQG/P3/M, Ngày 19/1/1965, HS số 29541.
[6] Ngày 19/2/1965, “Hội đồng quân lực” do Nguyễn Văn Thiệu cầm đầu loại Khánh ra khỏi quân đội. Ngày 19/6/1965, “Hội đồng quân lực” lật đổ chính quyền của Phan Khắc Sửu và Phan Huy Quát, lập “Ủy ban lãnh đạo quốc gia” do Nguyễn Văn Thiệu làm chủ tịch và “Ủy ban hành pháp trung ương” do Nguyễn Cao Kì làm chủ tịch.
[7] Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, Bản tin số 1 do phân ban sinh viên Khoa học vận động hòa bình ấn hành ngày 17/3/1965.

[8] Báo Bình Dương, Bác sĩ Huỳnh Tấn Mẫm: Người đấu tranh cho hạnh phúc, http://www.baobinhduong.org.vn, Cập nhật ngày 16/6/2011.

[9] Tiền thân của Khu đoàn là Ban Cán sự Thanh niên Học sinh Sinh viên khu Sài Gòn – Gia Định.
[10] Thành Đoàn Tp. Hồ Chí Minh, Lược sử Thành Đoàn Tp. Hồ Chí Minh, NVHTN, Tp. Hồ Chí Minh.
[11] Nhiều tác giả (1975), Trui rèn trong lửa đỏ (Tập kí sự truyền thống Thành đoàn), Nxb Văn Nghệ Tp. Hồ Chí Minh, tr. 67.
[12] Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, Phiếu trình Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Cộng hòa của Bộ văn hóa Giáo dục khối Thanh niên học đường, Số 8/M:VHGD/VP, Ngày 13/4/1968, HS số 30218.
[13] Triết lí giáo dục đại học của miền Nam Việt Nam được xác định trong Đại hội Giáo dục lần thứ nhất năm 1958, với ba nguyên tắc căn bản là “nhân bản, dân tộc, khai phóng” và “từ 1965, Đại học miền Nam mới có cơ hội tiếp cận với tinh thần thực dụng và chế độ tự trị đại học của Mỹ và tìm cách áp dụng vào hệ thống đại học Việt Nam”[Lê Xuân Khoa, 2010] và sau đó, Điều 10 trong Hiến Pháp 1967 (được ban hành ngày 18/3/1967) của chính quyền Sài Gòn đã chính thức khẳng định nguyên tắc: “Nền giáo dục Đại học được tự trị”.
[14] Liên danh tranh cử Lê Hồng Khanh (Liên danh đứng đầu Liên viện đại học, nắm 5 phân khoa: Y khoa, Nha khoa, Dược khoa, Văn khoa và Học viện hành chính); Liên danh Hồ Hữu Nhựt (Chủ tịch Ban đại diện sinh viên Sư phạm, Chủ tịch phong trào đòi Tự trị đại học – do Khu đoàn đề cử)
[15] Nhiều tác giả (1975), Trui rèn trong lửa đỏ (tập kí sự truyền thống thành đoàn), Nxb Văn Nghệ Tp. Hồ Chí Minh, tr. 69.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét